Nội dung hủy án:
(i) Trong vụ án này, chiếc xe mô tô biển số 60C1-046.61 nhãn hiệu SYM Attila, số khung 016143, số máy 016143 bị cáo Nhật sử dụng, là phương tiện dùng vào việc phạm tội. Chiếc xe mô tô này do chị Phan Ngọc Minh C (vợ bị cáo Nhật) mua vào ngày 29/9/2019 tại Cửa hàng bán xe máy Như Ý với giá 10.500.000 đồng; vẫn đứng tên chủ sử dụng cũ là chị Trần Thị Hương Tr và chưa sang tên cho chị C. Theo quy định tại Điều 33 của Luật Hôn nhân và gia đình thì chiếc xe này là tài sản chung của bị cáo Nh và chị C. Tòa án cấp phúc thẩm đã tịch thu giá trị 1/2 chiếc xe mô tô biển số 60C1- 046.61 để sung công quỹ nhà nước, trả lại giá trị 1/2 chiếc xe mô tô biển số 60C1-046.61 cho chị C. Tuy nhiên, theo nội dung văn bản số 259/CCTHADS ngày 24/02/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai thể hiện, Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Biên Hòa không thể thực hiện được việc trả lại ½ giá trị tài sản vật chứng theo như quyết định tại bản án hình sự phúc thẩm do các quy định pháp luật liên quan đến việc tịch thu, sung công quỹ nhà nước.
(ii) Trong khi đó, việc phạm tội của bị cáo vào ngày 07/11/2019 của Trần Phước Nh mang tính chất bộc phát, không phải lên kế hoạch chuẩn bị từ trước. Chiếc xe mô tô bị thu giữ là phương tiện phục vụ sinh hoạt thiết yếu, lao động hàng ngày đối với chị Phan Ngọc Minh C và có giá trị không lớn. Do vậy, việc Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa trả lại chiếc xe mô tô cho chị Phan Thị Minh C là phù hợp với chính sách nhân đạo của Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự trong việc bảo vệ quyền về tài sản của cá nhân.