Nội dung sửa án:
Xét giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn Đình A và bà Trần Thị L thể hiện tại Giấy Hợp đồng mua bán đất viết tay năm 2000, Giấy bán đất ngày 16-02-2002 đối với thửa đất của ông A tại thôn Đ 2, xã NA, huyện VC, tỉnh Yên Bái, không có chứng nhận của Công chứng nhà nước hoặc chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền; đất chuyển nhượng chưa được cấp Giấy CNQSD đất là vi phạm điều kiện chuyển nhượng, thuộc trường hợp được hướng dẫn tại điểm a.4; a.6 tiểu mục 2.3 phần II Nghị quyết số 02/2004/NQHĐTP ngày 10-4-2004 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (Sau đây ghi là Nghị quyết số 02/2004). Cũng tại điểm b tiểu mục 2.3 phần II Nghị quyết này đã quy định:
“b.2) Đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà tại thời điểm giao kết vi phạm các điều kiện được hướng dẫn tại điểm a.4 và điểm a.6 tiểu mục 2.3 mục 2 này, nhưng sau đó đã được Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền cấp Giấy CNQSDĐ hoặc một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003 mà có phát sinh tranh chấp và từ ngày 01/7/2004 mới có yêu cầu Toà án giải quyết, thì không coi là hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều kiện này.
b.3) Đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vi phạm điều kiện được hướng dẫn tại điểm a.4 và điểm a.6 tiểu mục 2.3 mục 2 này, nếu sau khi thực hiện hợp đồng chuyển nhượng, bên nhận chuyển nhượng đã trồng cây lâu năm, đã làm nhà kiên cố... và bên chuyển nhượng không phản đối và cũng không bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính theo các quy định của Nhà nước về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai, thì Toà án công nhận hợp đồng”
Như vậy, Hợp đồng chuyển nhượng đất giữa bà Trần Thị L và ông Nguyễn Đình A được thực hiện từ năm 2000, mặc dù có vi phạm điều kiện chuyển nhượng như nêu ở trên, nhưng sau khi chuyển nhượng thì các bên đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng, bà L đã nhận đất, trồng cây lâu năm, ông A đã nhận đủ tiền và không có ý kiến gì về việc bên mua sử dụng đất; thửa đất chuyển nhượng đã được cấp Giấy CNQSDĐ. Nên việc bà L và ông A lập Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 21-3-2019, được công chứngư tại phòng Công chứng số 2 tỉnh Yên Bái (nay là Văn phòng công chứng Nguyễn Minh T) là nhằm hoàn thiện về mặt thủ tục chuyển nhượng theo đúng quy định của pháp luật. Do đó, Tòa án cần công nhận Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Trần Thị L và ông Nguyễn Đình A có hiệu lực.
Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử thấy việc Bản án sơ thẩm tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà L và ông A vô hiệu và giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu là không đúng quy định của pháp luật. Do đó, Hội đồng xét xử không chấp nhận quan điểm của Kiểm sát viên tại phiên tòa, đồng thời chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn để sửa Bản án sơ thẩm theo hướng công nhận Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Trần Thị L và ông Nguyễn Đình A có hiệu lực. Bà Trần Thị L có quyền sử dụng đối với thửa đất có diện tích 94,4m2 đất ở nông thôn tại thôn Đ 2, xã NA, thị xã NL, tỉnh Yên Bái (Trong đó có 76m2 đã được cấp Giấy CNQSDĐ số X 853357 ngày 15-10- 2003 mang tên hộ ông Nguyễn Đình A).