Bản án dân sự phúc thẩm số 399/2024/DS-PT ngày 09/9/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An về việc đòi tài sản, hủy hợp đồng thế chấp, hủy hợp đồng ủy quyền, vô hiệu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

Nội dung hủy án 

(i) Các nguyên đơn bà L (sinh năm 1965), bà T và bà L (sinh năm 1978) yêu cầu hủy hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất; Hủy hợp đồng ủy quyền xử lý tài sản thế chấp; yêu cầu tuyên vô hiệu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất; yêu cầu đòi tài sản là quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 50, diện tích theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là 26.770m2, thuộc tờ bản đồ số 5, tọa lạc tại ấp C, xã T, huyện T. Các nguyên đơn cho rằng, thửa đất nói trên là tài sản chung của các nguyên đơn và ông L1. Chứng cứ các nguyên đơn cung cấp là hợp đồng hùn vốn mua đất viết tay ngày 25/5/2022. Theo hợp đồng thì bà L (sinh năm 1965), bà T và bà L (sinh năm 1978), ông L1 mỗi người góp số tiền 800.000.000 đồng, tổng số tiền góp là 3.200.000.000 đồng và thống nhất ông L1 là người đứng tên trên giấy chứng nhận QSDĐ, thực hiện các thủ tục nhận chuyển nhượng đất. Tại phiên tòa, người đại diện của các nguyên đơn là bà X và ông L1 đều thừa nhận việc các bên có viết hợp đồng hùn vốn ngày 25/5/2022. Ông L1 cho rằng, số tiền thực tế góp mua đất mỗi người là 550.000.000 đồng, không phải 800.000.000 đồng. Sau khi ông L1 đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì đã trả lại toàn bộ phần vốn góp cho các bà L (sinh năm 1965), bà T và bà L (sinh năm 1978). Tuy nhiên, ông L1 không cung cấp được chứng cứ chứng minh, ông L1 cho rằng do tin tưởng nên chỉ đưa tiền trả mà không có lập biên nhận giao tiền.

Xét thấy: Quá trình giải quyết vụ án các nguyên đơn và bị đơn ông L1 đều thừa nhận có việc hùn vốn để nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại thửa đất số 50, nhưng giao cho ông L1 là người đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhưng các nguyên đơn cho rằng mỗi người hùn vốn với số tiền là 800.000.000đồng, phía ông L1 thì xác định mỗi người chỉ hùn vốn số tiền là 550.000.000đồng, nhưng ông L1 xác định đã trả lại phần tiền hùn cho các bà L (sinh năm 1965), bà T và bà L (sinh năm 1978) xong nhưng không cung cấp được chứng cứ để chứng minh, các nguyên đơn thì không thừa nhận có nhận lại phần tiền hùn từ ông L1. Tuy nhiên, quá trình giải quyết vụ án Tòa án cấp sơ thẩm chưa tiến hành đối chất để làm rõ việc này.

(ii) Về quá trình quản lý và sử dụng đất, bà L (sinh năm 1965) xác định đang quản lý sử dụng đất, phía ông L1 cũng xác định mình là người đang quản lý, sử dụng đất và khi bán đất cho ông D đã giao đất cho ông D tiếp tục, quản lý sử dụng. Tòa sơ thẩm cũng không thu thập chứng cứ để làm rõ quá trình quản lý, sử dụng đất để xem ai là người trực tiếp quản lý đất từ khi ông L1 đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho đến nay. Ngoài ra, tại phiên tòa phúc thẩm ông Võ Thanh P là chồng bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1978, ông Nguyễn Văn S chồng bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1965, ông Nguyễn Văn H là chồng bà Nguyễn Thị T (có đơn trình bày) đều yêu cầu được tham gia tố tụng đối với vụ án này vì nguồn tiền mua đất là tiền chung của vợ chồng, nhưng quá trình giải quyết vụ án Tòa sơ thẩm không đưa ông S, ông P và ông H tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng theo quy định tại Điều 68 Bộ luật Tố tụng dân sự, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Từ những vi phạm, thiếu sót trên của Tòa án cấp sơ thẩm, xét thấy việc thiếu sót này tại cấp phúc thẩm không khắc phục và không bổ sung được. Do đó, để đảm bảo cho việc xét xử của Tòa án hai cấp và để giải quyết toàn diện vụ án và đảm bảo quyền lợi của các đương sự. Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm xét thấy cần hủy toàn bộ bản án sơ thẩm, giao hồ sơ về Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại theo thủ tục chung.

Bài viết liên quan

Góp ý