Bản án dân sự phúc thẩm số 97/2024/DS-PT ngày 11/7/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng về việc tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

Nội dung hủy án:

(i) Theo hồ sơ thể hiện: Thửa đất số 588, diện tích 2.570m2 đất trồng cây lâu năm thuộc tờ bản đồ G.159.I.A tọa lạc tại phường B, thành phố B đứng tên ông Nguyễn Mạnh Q có nguồn gốc nhận chuyển nhượng của ông Trần Xuân L năm 2011. Năm 2012, ông Q đã tách thửa đất này thành thửa 655 diện tích 2.070m2 và thửa 656 diện tích 500m2 (BL 02,04,77). Sau đó, ông Q đã chuyển nhượng thực tế diện tích là 500m2 thuộc thửa đất 655 cho bà Võ Thị Hồng V; còn diện tích đất thửa 656 chỉ là do các đương sự nhầm lẫn trong việc tách thửa đất trên giấy tờ về diện tích đất chuyển nhượng, dẫn đến các bên lập Hợp đồng trên giấy tờ chuyển nhượng cho nhau là thửa 656. Tại thời điểm ông Q chuyển nhượng đất cho bà Võ Thị Hồng V thì thửa đất này tuy chỉ đứng tên ông Q nhưng được tạo lập trong thời kỳ hôn nhân giữa ông Q với bà Trần Thị Thu V1. Năm 2012, ông Q đã chuyển nhượng cho bà Võ Thị Hồng V 500m2 thuộc một phần thửa 655 trong tổng diện tích là 2.070m2, lúc này ông Q, bà Trần Thị Thu V1 chưa ly hôn. Tháng 8/2017 ông Q và bà Trần Thị Thu V1 ly hôn, đến ngày 31/7/2019, ông Q và bà Trần Thị Thu Vân T4 lập Văn bản thỏa thuận phân chia tài sản chung vợ chồng sau ly hôn, trong đó có thỏa thuận về phân chia diện tích 500m2 thuộc một phần thửa 655 mà ông Q đã chuyển nhượng trên thực tế, hiện nay do ông T1 và bà T2 đang sử dụng (BL 157-162). Như vậy, việc giải quyết vụ án có liên quan đến quyền và nghĩa vụ của bà Trần Thị Thu V1. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm không đưa bà Trần Thị Thu V1 vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là vi phạm thủ tục tố tụng.

(ii) Diện tích thực tế mà các bên thỏa thuận chuyển nhượng đã sử dụng ổn định từ năm 2012 cho đến nay là 500m2 thuộc một phần thửa 655, nhưng do nhầm lẫn nên trên giấy tờ ghi thửa 656. Trong quá trình Tòa án cấp sơ thẩm thụ lý giải quyết thì nguyên đơn chỉ khởi kiện yêu cầu hủy các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là thửa 656 nhưng bị đơn là ông T và vợ chồng ông T1, bà T2 không đồng ý mà cho rằng việc chuyển nhượng đã thanh toán tiền và nhận đất để sử dụng và ông T1, bà T2 đã xây nhà ở, làm quán kinh doanh cà phê. Do đó, trách nhiệm của Tòa án cấp sơ thẩm khi hủy hết các hợp đồng chuyển nhượng liên quan đến thửa 656 thì phải giải quyết diện tích đất thực tế các đương sự đã chuyển nhượng cho nhau là 500m2 thuộc một phần thửa 655 (ông Q đang đứng tên) nhưng lại không giải quyết là chưa xem xét hết những vấn đề có liên quan đến nội dung vụ án không đảm bảo quyền và lợi ích của người nhận chuyển nhượng cuối cùng là vợ chồng ông T1, bà T2.

(iii) Tại Họa đồ trích đo hiện trạng sử dụng đất ngày 21-11-2023 (BL 103) thể hiện diện tích thực tế mà ông T1 và bà T2 đang quản lý sử dụng là 599,9m2 gồm: 413,3m2 thuộc một phần thửa 655 ông Q đang đứng tên; 132,9m2 thuộc một phần thửa 284 và 53,7m2 thuộc một phần thửa 589. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm cũng không làm rõ các đương sự có yêu cầu giải quyết cụ thể về diện tích đất này không, một phần diện tích đất thuộc thửa 284 thuộc quyền sử dụng của ai, có yêu cầu gì không, để đưa vào tham gia tố tụng.

(iv) Thửa đất 656 mà các đương sự nhầm lẫn chuyển nhượng cho nhau, hồ sơ thể hiện tại trang 4 của giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cập nhật đăng ký biến động tên của bà Võ Thị Hồng V và sau đó là tên của ông Nguyễn Lương T nhưng trong quá trình giải quyết, Tòa án cấp sơ thẩm không thu thập chứng cứ về hồ sơ chuyển nhượng thửa đất này tại Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai thành phố B giữa các bên đương sự đối với thửa đất này. Tại phiên tòa hôm nay, ông T, ông T1 đều thừa nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông T sang cho ông T1, bà T2 đã hoàn thành và ông T1, bà T2 đã được sang tên tại trang 4 nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không xem xét đương sự có yêu cầu hủy trang 4 của giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cập nhật biến động sang tên ông T1, bà T2 hay không. Bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 656 vợ chồng ông T1, bà T2 đang giữ nhưng Bản án không tuyên buộc vợ chồng ông T1, bà T2 phải trả lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Q. Cũng tại phiên tòa phúc thẩm, ông T1, bà T2 trình bày đã thế chấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 656 cho bà Nguyễn Thị Huyền T5 để vay số tiền 200.000.000đ nhưng cấp sơ thẩm không xác minh thu thập chứng cứ đưa bà T5 vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là không thể thi hành bản án.

(v) Ngoài ra, phần diện tích đất thuộc thửa 656 mà các bên thỏa thuận theo các hợp đồng chuyển nhượng thì ông Q vẫn sử dụng ổn định, còn phần diện tích 500m2 thuộc một phần thửa 655 là diện tích thực tế được các bên chuyển nhượng và giao đất, do ông T1 và bà T2 đang sử dụng. Theo biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 01/11/2023 và chứng thư thẩm định giá (BL 101, 123) thì trên đất ông T1, bà T2 đã làm ở, nhà gỗ, mái hiên để kinh doanh quán cà phê, tổng giá trị 404.581.444đ. Tuy nhiên, tại bản án sơ thẩm, Tòa án nhân dân thành phố Bảo Lộc tuyên hủy các hợp đồng chuyển nhượng liên quan đến diện tích 500m2 thuộc thửa 656 nhưng lại không xem xét giải quyết việc chuyển nhượng diện tích 500m2 thuộc một phần thửa 655 là diện tích thực tế được các bên chuyển nhượng và giao đất có hiệu lực hay không cũng như không xem xét giải quyết số tiền mà ông T1, bà T2 đã bỏ ra để đầu tư xây dựng các công trình trên đất là chưa giải quyết triệt để những vấn đề có liên quan đến nội dung của vụ án.

Từ những phân tích trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã vi phạm thủ tục tố tụng và nội dung làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, cấp phúc thẩm không thể khắc phục được.

Do đó, cần phải hủy toàn bộ bản án sơ thẩm. Chuyển hồ sơ về cho Tòa án nhân dân thành phố Bảo Lộc, thụ lý giải quyết lại vụ án theo đúng quy định pháp luật.

Bài viết liên quan

Góp ý