Nội dung hủy án:
(i) Quá trình xét xử sơ thẩm, Tòa án cấp sơ thẩm đã có triệu tập các bên đương sự lên để đối chất làm rõ các mâu thuẫn trong lời khai của đương sự và tài liệu chứng cứ trong hồ sơ nhưng không thực hiện được việc đối chất do nguyên đơn xin vắng mặt, cấp phúc thẩm cũng đã triệu tập để đối chất nhưng nguyên đơn từ chối đối chất nên cấp phúc thẩm không thực hiện được việc đối chất giữa nguyên đơn và bị đơn. Do đó, để làm rõ các tình tiết của vụ án, Tòa án cấp phúc thẩm xem xét các chứng cứ khác có liên quan để giải quyết các yêu cầu của các bên đương sự.
Theo trình bày và tài liệu, chứng cứ của bị đơn cung cấp cho Tòa án cấp sơ thẩm tại các bút lục số từ 41-47 là bản sao hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bị đơn Lê Hồ Phương T và bà Nguyễn Thị Tố U vào ngày 16/10/2020 không có công chứng chứng thực để chứng minh ngày 16/10/2020 bà T chỉ ký hợp đồng với bà U, không ký với ông B. Tuy nhiên, nội dung trình bày của bị đơn không được cấp sơ thẩm xem xét.
(ii) Tại cấp phúc thẩm, bị đơn tiếp tục trình bày và yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét, làm rõ mối quan hệ giữa nguyên đơn, bị đơn và các bên có liên quan đến việc vay nợ, thế chấp tài sản của bị đơn. Để làm rõ tài liệu chứng cứ nêu trên, theo yêu cầu của bị đơn, Tòa án cấp phúc thẩm đã xác minh, thu thập chứng cứ tại Văn phòng Công chứng T và theo Biên bản làm việc ngày 14/5/2024, Văn phòng Công chứng T cung cấp thông tin kèm theo bản sao Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 16/10/2020 giữa bà Lê Hồ Phương T và bà Nguyễn Thị Tố U được chứng thực bởi Văn phòng công chứng A (nay là T) số công chứng 7806, quyển số 04TP/CC-SCC/HĐGD ngày 16/10/2020 thể hiện vào ngày 16/10/2020 bà T có ký hợp đồng chuyển nhượng cho bà U quyền sử dụng đất thuộc thửa số 1430, tờ bản đồ 09 tọa lạc tại phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương, diện tích 93.9m2 với giá 1.000.000.000 đồng. Hợp đồng này khác với hợp đồng bị đơn cung cấp tại cấp sơ thẩm ở mục ghi chữ “Tôi đã đọc và đồng ý” và dấu vân tay (trong hợp đồng cấp sơ thẩm thu thập không có nội dung này).
(iii) Theo bị đơn trình bày ngoài giao dịch vay tiền của bà U thì bà T không thực hiện giao dịch với bất kỳ người nào vào ngày 16/10/2020. Ngoài giấy vay tiền còn mâu thuẫn về nội dung thì nguyên đơn không cung cấp bất kỳ chứng cứ nào khác liên quan đến mối quan hệ làm ăn, những người có thể làm chứng về mối quan hệ giữa nguyên đơn và bị đơn, việc giao nhận tiền giữa hai bên cũng như phương thức giao nhận tiền đối với các khoản vay trước ngày 16/10/2020 giữa nguyên đơn và bị đơn như trình bày của người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Đoàn Quốc D và đồng thời nguyên đơn là bên đi khởi kiện nhưng lại từ chối đối chất với bị đơn tại cấp sơ thẩm và phúc thẩm. Do đó, cần xác định thời điểm nguyên đơn cho bị đơn vay là từ khi nào, các lần vay cụ thể bao nhiêu tiền, thời gian nào, lãi phát sinh bao nhiêu, phương thức vay như thế nào để có cơ sở vững chắc xác định nghĩa vụ thanh toán theo quy định của pháp luật.
Mặt khác, theo trình bày của bị đơn thì sau khi nguyên đơn khởi kiện, qua tìm hiểu bị đơn mới phát hiện địa chỉ của nguyên đơn trùng với địa chỉ văn phòng làm việc của ông Phạm Hoàng L là người đại diện cho bị đơn trong quá trình thi hành án đối với vụ án tranh chấp ly hôn giữa bà T2 và ông S. Ông L là người biết rất rõ mối quan hệ vay tiền giữa bà T2, bà T và bà U nhưng sau này lại làm hồ sơ cho ông B đi khởi kiện bị đơn yêu cầu trả nợ. Như vậy, giữa bà T, ông B, Ông L, bà T2, bà U có mối quan hệ như thế nào cũng cần được làm rõ.
(iv) Từ những tình tiết phân tích nêu trên, do tại Tòa án cấp phúc thẩm phát sinh tình tiết mới cần được xem xét ở 2 cấp xét xử đồng thời cần xác minh thu thập thêm chứng cứ liên quan đến các lần ký kết giao dịch vay tiền của nguyên đơn và bị đơn, mối quan hệ làm ăn giữa nguyên đơn, bị đơn và những người tham gia vào các giao dịch với nguyên đơn, bị đơn tại thời điểm trước và sau khi ký kết giấy vay tiền ngày 16/10/2020 để làm rõ các mâu thuẫn và đánh giá đúng bản chất của vụ án làm cơ sở giải quyết vụ án triệt để. Do đó, có cơ sở chấp nhận một phần kháng cáo của bị đơn, hủy bản án sơ thẩm; chuyển hồ sơ về Tòa án nhân dân thành phố T giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm để đảm bảo quyền lợi cho các bên đương sự.