Bản án dân sự phúc thẩm số 278/2019/DS-PT ngày 19/11/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh về việc tranh chấp liên quan đến yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu

Nội dung hủy án:   

(i) Mặt khác, nội dung Di chúc của cụ T1 lập ngày 28-12-2010 cũng không đề cập gì đến bà Trần Thị K và Trần Thị G, không liên quan đến quyền, nghĩa vụ của bà K, bà G; bà K và bà G cũng không phải là người làm chứng di chúc. Do đó, bà K và bà G không có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố văn bản công chứng di chúc của cụ T1 lập ngày 28-12-2010 vô hiệu, không có quyền khởi kiện theo Điều 186, 187 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 nhưng Tòa án cấp sơ thẩm xác định bà K và bà G có quyền khởi kiện và thụ lý giải quyết vụ án là không đúng quy định tại điểm a khoản 1 Điều 192 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. 

(ii) Trong quá trình bà T kê khai nhận di sản thừa kế của cụ T1, thực hiện thủ tục sang tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, cơ quan có thẩm quyền đã thực hiện thủ tục niêm yết công khai theo quy định của pháp luật nên bắt buộc bà K và bà G phải biết văn bản công chứng di chúc của cụ T1 nhưng bà K và bà G không ai khiếu nại và không có ý kiến gì. Ngày 21-01-2015, bà T đã được Ủy ban nhân dân huyện T cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích 3.493,4 m2 tọa lạc tại xã A, huyện T, tỉnh Tây Ninh theo giấy chứng nhận quyền6 sử dụng đất số CH13444 (do chuyển từ lưới cũ sang lưới mới năm 2005 nên có sự thay đổi tăng diện tích). Tính từ ngày 21-01-2015 đến ngày bà K, bà G khởi kiện vào ngày 27-9-2018 là quá thời hạn 02 năm nên theo quy định tại khoản 1 Điều 132, điểm d khoản 1 Điều 688 của Bộ luật Dân sự năm 2015 đã hết thời hiệu khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên bố văn bản công chứng di chúc vô hiệu. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm xác định sai thời điểm tính thời hiệu khởi kiện và nhận định thời hiệu khởi kiện vẫn còn, không hỏi các bên đương sự về việc áp dụng thời hiệu khởi kiện theo Điều 184 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.

(iii) Trong vụ án này, Tòa án cấp sơ thẩm xác định đối tượng khởi kiện là văn bản công chứng di chúc của Phòng Công chứng S tỉnh Tây Ninh và xem xét hiệu lực của Di chúc lập ngày 28-12-2010 của cụ T1. Khi Tòa án xem xét tính hiệu lực của Di chúc lập ngày 28-12-2010 của cụ T1 thì ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của người được hưởng thừa kế theo di chúc là bà T. Bà T đã chết vào ngày 27-4-2018 nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không đưa những người thừa kế của bà T vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là xâm phạm nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 12-11-2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh, chị Trần Thị Mỹ H khai chị là người thừa kế duy nhất của bà T. Tại phiên tòa phúc thẩm, bà K, bà G xác định chị H là người con duy nhất của bà T và là người đang trực tiếp quản lý di sản thừa kế của cụ T1 nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không đưa chị H tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để làm rõ về người thừa kế của bà T là xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của chị H. 

(iv) Do đó, Phòng Công chứng S tỉnh Tây Ninh căn cứ vào hồ sơ công chứng do cụ T1 cung cấp, trong đó có Đơn xin xác nhận tình trạng hôn nhân để thực hiện công chứng di chúc cho cụ T1 đối với phần đất diện tích 2.928 m2, thửa số 3105, 602 tọa lạc tại xã A, huyện T, tỉnh Tây Ninh là đúng theo quy định của pháp luật. Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ vào Đơn xin xác nhận tình trạng hôn nhân của cụ T1 ghi ngày 24-12-2010 không đúng mẫu để tuyên bố Di chúc lập ngày 28-12-2010 của cụ T1 vô hiệu là thiếu căn cứ.

Góp ý