Nội dung hủy án:
(i) Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn cung cấp 02 (hai) Biên bản bàn giao chứng cứ ngày 12/8/2016 do ông H và bà K lập để giao nộp chứng cứ cho nhau, trong đó:
- Ông H cung cấp cho bà K các giấy tờ thi công từ ngày 10/02/2014 đến ngày 30/3/2014, giá trị là 250.000.000 đồng (theo như đơn khởi kiện);
- Bà K cung cấp chứng cứ cho ông H trong đó có “Bảng báo giá khối lượng công trình tôi đã thanh toán”. Mặc dù đã được gạch bỏ nhưng sau đó vẫn có chữ ký của ông H “đã nhận”.
Tài liệu trong hồ sơ (Bút lục số 19 và 20) thể hiện: Ngày 19/7/2016, Tòa án nhân dân huyện B có Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải triệu tập đương sự tham gia vào lúc 08 giờ 30 ngày 12/8/2016. Ngày 12/8/2016, Tòa án cấp sơ thẩm có lập Biên bản ghi nhận sự vắng mặt do bà Lương Tú X vắng mặt. Tuy nhiên, trong biên bản này không thể hiện ý kiến của nguyên đơn và bị đơn có đồng ý tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải mà vắng mặt bà X hay không.
Do Tòa án cấp sơ thẩm cũng không thực hiện phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải vào ngày 20/8/2016 và các lần Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải sau ngày 12/8/2016 không có đề cập đến chứng cứ do bà K cung cấp nên việc tại phiên tòa phúc thẩm ông H xuất trình chứng cứ là Biên bản bàn giao chứng cứ ngày 12/8/2016 giữa bà K và ông H trong đó có “Bảng báo giá khối lượng công trình tôi đã thanh toán” là có hay không và nội dung của “Bảng báo giá khối lượng công trình tôi đã thanh toán” là như thế nào thì Hội đồng xét xử phúc thẩm không có căn cứ để xác định.
(ii) Từ nhận định [2.1] và [2.2] có căn cứ xác định như sau: Sau khi thực hiện xong Hợp đồng thi công tháng 11/2013 với giá trị 345.000.000 đồng, ông H có tiếp tục thi công sửa chữa đối với căn biệt thự số 72 Đường số 9, khu dân cư S, ấp 4, xã E, huyện B. Tuy nhiên, giữa ông H và bà K không thống nhất được: Việc làm này được có thỏa thuận hay không; Thỏa thuận với ai (nếu có, vì theo Hợp đồng thi công tháng 11/2013 bà K chỉ là người đại diện ký hợp đồng); Thỏa thuận thi công đối với hạng mục nào; Thực tế đã thi công được hạng mục nào; Số tiền bà K đã trả cho ông H là bao nhiêu (665.000.000 đồng – như lời khai ông H hay 630.000.000 đồng như lời khai của bà K)?
Như vậy là có sự mâu thuẫn trong lời khai giữa các bên đương sự nhưng Tòa án cấp sơ thẩm đã không tiến hành đối chất theo quy định tại Điều 100 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 là ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự. Tại phiên tòa phúc thẩm, bà K vắng mặt nên cấp phúc thẩm không thể thực hiện bổ sung được, do vậy cần hủy bản bán sơ thẩm để giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm.
Việc chưa giải quyết được tranh chấp về hợp đồng thi công thì không thể giải quyết phần tranh chấp về bồi thường thiệt hại, do vậy cần hủy toàn bộ bản án sơ thẩm để giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm.
Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về nội dung vụ kiện là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Nguyễn Đình H; Hủy bản án sơ thẩm.