Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 07/2022/KDTM-PT ngày 01/11/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Hậu Giang về việc tranh chấp hợp đồng thi công xây dựng và cung cấp thiết bị lắp đặt vào công trình xây dựng

Nội dung hủy án:   

(i) Xét thấy, tại điều kiện thanh toán lần 5 (lần sau cùng) quy định tại mục 3.2 Điều 3 của Hợp đồng số 2611/2020/HĐTC-ĐNL thì ngoài các hồ sơ, tài liệu, chứng từ công ty D đã cung cấp thi công ty D còn phải cung cấp cho công ty K bản vẽ hoàn công công trình và phải có Biên bản nghiệm thu hoàn thành công trình đưa vào sử dụng.

(ii) Đối với việc ký biên bản nghiệm thu hoàn thành công trình đưa vào sử dụng: Căn cứ Hợp đồng 2611/2020/HĐTC-ĐNL thì bên A (công ty K) giao cho bên B (công ty D) “thi công Công trình: Thiết kế và lắp Đặt Hệ Thống ĐiệnNăng Lượng Mặt Trời Hòa Lưới Trên Mái Nhà Xưởng tại Công Ty Cổ Phần Nông Nghiệp Công Nghệ Cao Y” với khối lượng công việc “Theo Bảng tổng hợp dự toán đã được hai bên thống nhất ký duyệt đính kèm”. Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện công ty D và đại diện công ty K thừa nhận mặc dù hợp đồng có nội dung thi công với khối lượng công việc theo Bảng tổng hợp dự toán đã được hai bên phê duyệt nhưng thực tế không có bản tổng hợp dự toán. Do đó, không đủ cơ sở để xác định từng hạng mục thi công công trình. Về ý kiến của đại diện công ty K cho rằng công ty D không thi công phần máng xối của mái nhà hệ thống, không khắc phục phần sắt, thép bị hư hỏng, 01 thiết bị inverter bị hư hỏng không khắc phục mặc dù bị đơn đã nhiều lần có văn bản yêu cầu khắc phục nên không chấp nhận ký biên bản nghiệm thu hoàn thành công trình đưa vào sử dụng. Tòa án cấp sơ thẩm chưa tiến hành thu thập chứng cứ để làm những vấn đề đại diện bị đơn trình bày mà nhận định rằng bị đơn công ty K chấp nhận nghiệm thu miệng là chưa đủ cơ sở vững chắc.

(iii) Về bản vẽ hoàn công: Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn đại diện công ty D thừa nhận chưa hoàn thành bản vẽ hoàn công đúng, rõ như thực tế thi công công trình. Trong quá trình xét xử phúc thẩm, Hội đồng xét xử đã tạm ngưng phiên tòa để hai bên phối hợp hoàn thành bản vẽ hoàn công nhưng hai bên vẫn không thống nhất phối hợp thực hiện. Xét thấy, theo tại điều kiện thanh toán lần 5 quy định tại mục 3.2 Điều 3 của Hợp đồng số 2611/2020/HĐTC-ĐNL thì công ty D phải có nghĩa vụ hoàn thành bản vẽ hoàn công mới đủ điều kiện yêu cầu công ty K thanh toán. Hơn nữa, căn cứ Điều 124 của Luật Xây dựng năm 2014 tại khoản 3 quy định:“Khi bàn giao công trình xây dựng, nhà thầu thi công xây dựng phải giao cho chủ đầu tư các tài liệu gồm bản vẽ hoàn công, quy trình hướng dẫn vận hành, quy trình bảo trì công trình, danh mục các thiết bị, phụ tùng, vật tư thay thế và các tài liệu cần thiết có liên quan”, theo đó trách nhiệm của công ty D phải lập và bàn giao bản vẽ hoàn công cho công ty K khi bàn giao công trình; và tại khoản 4 quy định “Trường hợp chưa bàn giao được công trình cho chủ quản lý sử dụng thì chủ đầu tư có trách nhiệm tạm thời quản lý, vận hành công trình xây dựng”. Như vậy, công ty D chưa hoàn thành nghĩa vụ theo hợp đồng là lập và cung cấp bản vẽ hoàn công đúng, rõ như thực tế thi công cùng các giấy tờ có liên quan đến vận hành, khai thác công trình cho công ty K theo hợp đồng xây dựng đã ký kết và theo quy định của Luật Xây dựng, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm lại chấp nhận yêu cầu khởi kiện của công ty D là chưa đủ cơ sở vững chắc.

(iv) Tại phiên tòa phúc thẩm, các đương sự trình bày thống nhất do công ty D thuê đơn vị thiết kế và hồ sơ nghiệm thu công trình có sự tham gia của công ty trách nhiệm hữu hạn Đầu tư Xây dựng M là đơn vị thiết kế, đồng thời là đơn vị giám sát nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không đưa công ty trách nhiệm hữu hạn Đầu tư Xây dựng M vào tham gia tố tụng là thiếu sót. Ngoài ra, vị trí thi công công trình là mái nhà xưởng của công ty Cổ phần Nông nghiệp công nghệ cao Hậu Giang nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không đưa công ty Cổ phần Nông nghiệp công nghệ cao Y vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là thiếu sót, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.

Góp ý