1. Giải thích từ ngữ
Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ được hiểu là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái công vụ gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, của xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân do vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác.
2. Tội danh
“Điều 356. Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ
1. Người nào vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái công vụ gây thiệt hại về tài sản từ 10.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại khác đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:
a) Có tổ chức;
b) Phạm tội 02 lần trở lên;
c) Gây thiệt hại về tài sản từ 200.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng.
3. Phạm tội gây thiệt hại về tài sản 1.000.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm.
4. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm, có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng.”
3. Cấu thành tội phạm
3.1. Khách thể của tội phạm
Tội lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức xã hội, đồng thời xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và công dân.
3.2. Mặt khách quan của tội phạm
Người bị truy cứu trách nhiệm hình sự tội lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ thì dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm phải thỏa mãn 2 điều kiện cơ bản:
- Hành vi: Người phạm tội trước hết phải là người đã lợi dụng chức vụ và quyền hạn của mình. Hành vi này tương tự như hành vi của tội phạm tham ô, tội nhận hối lộ, và các tội khác liên quan đến việc lợi dụng chức vụ, quyền hạn. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn là hành vi của người có quyền lực, sử dụng quyền lực đó một cách trái phép để đạt được mục đích cá nhân. Nếu không sử dụng quyền hạn, họ sẽ không thể thực hiện hành vi để đạt mục đích của mình. Hành vi gây thiệt hại này liên quan trực tiếp đến chức vụ và quyền hạn của người phạm tội, và nếu không có chức vụ, quyền hạn đó họ khó có thể thực hiện hành vi này; chức vụ, quyền hạn là yếu tố thuận lợi giúp họ gây thiệt hại một cách dễ dàng.
- Hậu quả: Người có chức vụ, quyền hạn, khi lợi dụng quyền lực đó, phải gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, tổ chức xã hội, hoặc quyền lợi hợp pháp của công dân. Nếu hành vi không gây thiệt hại cho những đối tượng này mà nhằm mục đích khác, người phạm tội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội khác như lạm quyền trong khi thi hành công vụ theo Điều 357 BLHS; tội nhận hối lộ theo Điều 354 BLHS hoặc tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn để chiếm đoạt tài sản theo Điều 355.
3.3. Mặt chủ quan của tội phạm
- Lỗi của tội phạmlợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ là lỗi cố ý trực tiếp, ý thức nhận thức hành vi của mình là trái pháp luật nhưng vẫn thực hiện.
- Động cơ của tội pham là vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác. Động cơ vụ lợi là động lực bên trong thúc đẩy người phạm tội nhằm đạt được lợi ích vật chất cho mình hoặc cho người khác mà mình quan tâm. Động cơ cá nhân khác trong thực tế có thể là động cơ củng cố địa vị, uy tín cá nhân hoặc quyền lực cá nhân mà không mưu cầu lợi ích vật chất. Động cơ phạm tội là dấu hiệu pháp lý bắt buộc của tội này.
- Mục đích của tội phạm lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ là làm sao để đạt được nhiều lợi ích vật chất cho mình, cho người khác hoặc nhằm củng cố, nâng cao địa vị, uy tín, gia tăng quyền lực cá nhân.
3.4. Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ là cá nhân và phải đáp ứng các điều kiện: chủ thể của tội phạm là chủ thể đặc biệt, là người có chức vụ, quyền hạn. Ngoài hai dấu hiệu pháp lý thông thường của chủ thể của tội phạm là độ tuổi và năng lực trách nhiệm hình sự.
Trân trọng./.