Nội dung hủy án:
Theo đơn khởi kiện ngày 19 tháng 5 năm 2020, nguyên đơn ông Dương Phước H khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết tuyên bố hủy Hợp đồng ủy quyền ngày 03/12/2019, số công chứng 12775, quyển số 12TP/CC-SCC/HĐGD do Văn phòng C1 chứng nhận và hủy Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 13 tháng 02 năm 2020 giữa bà Lê Thị H1 và ông Cao Minh V được Văn phòng C quyển số 02 TP/CCSCC/HĐGD; ngày 06/8/2020, bị đơn bà Lê Thị H1 có đơn phản tố yêu cầu Tòa án công nhận Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 13 tháng 02 năm 2020 và ngày 19 tháng 8 năm 2023, bà H1 có đơn phản tố bổ sung yêu cầu Tòa án công nhận di chúc của bà Lê Thị Dung H5 lập ngày 22 tháng 11 năm 2019 có hiệu lực. Với nội dung yêu cầu của các đương sự nêu trên phải xác định quan hệ pháp luật trong vụ án là “Tranh chấp hợp đồng ủy quyền, tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và yêu cầu công nhận hiệu lực của di chúc”. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm xác định quan hệ pháp luật là “Tranh chấp hợp đồng ủy quyền, tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, tranh chấp thừa kế tài sản” là chưa chính xác.
(ii) Quá trình tố tụng tại cấp sơ thẩm, Tòa án cấp sơ thẩm đã đưa những người thừa kế quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Lê Văn X, tiến hành lấy lời khai một số người con của ông X. Trong đó một số người yêu cầu được chia thừa kế, gồm: ông Lê Văn T4 (bút lục 188), bà Lê Thị Xuân D (bút lục 39, 43), ông Lê Sơn T3, bà Lê Thị Yến O, bà Nguyễn Thị N (bút lục 186) nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không giải thích, hướng dẫn cho các đương sự thực hiện quyền yêu cầu chia di sản thừa kế theo pháp luật đối với phần di sản bà H5 để lại trong vụ án mà cho rằng do đương sự không có đơn yêu cầu chia thừa kế theo quy định nên tách ra giải quyết một vụ án khác khi có yêu cầu là giải quyết không toàn diện, triệt để vụ án, không giải quyết hết yêu cầu của đương sự.
Mặt khác, Tòa án cấp sơ thẩm chưa làm việc hết với tất cả các người con của ông Lê Văn X (gồm: ông Lê Tống Đ, ông Lê Minh Đ1, bà Lê Thị Thanh H4) để xác định rõ ý kiến và yêu cầu của họ mà đã quyết định đưa vụ án ra xét xử là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, ảnh hưởng quyền lợi của đương sự trong vụ án.
(iii) Nguồn gốc tài sản tranh chấp như nhận định tại mục [1.4], ngày 20/10/2019, ông Dương Phước H lập văn bản xác nhận quyền sử dụng đất số 180, tờ bản đồ số 28-2 tọa lạc tại khu C, phường P là tài sản riêng của bà H5. Trên cơ sở xác nhận của ông H, bà H5 ủy quyền toàn phần cho bà H1 đối với quyền sử dụng đất nói trên. Sau khi có ủy quyền của bà H5, bà H1 đã tiến hành thủ tục cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và ngày 13/02/2020, bà H1 ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất diện tích 97m2 thửa đất số 180, tờ bản đồ số 28-2 tọa lạc tại khu C phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương cho ông Cao Minh V với giá 2.600.000.000 đồng. Ông V đã giao cho bà H1 số tiền 1.940.000.000 đồng.
Như vậy, tại thời điểm bà H1 ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông V thì bà H5 đã chết, theo quy định của pháp luật tại khoản 3, Điều 140 Bộ luật Dân sự thì hợp đồng ủy quyền giữa bà H5 và bà H1 chấm dứt hiệu lực pháp luật kể từ khi người được đại diện chết.
Tuy nhiên, trước khi bà H5 chết ngày 11/7/2019 vợ chồng ông H, bà H5 ký hợp đồng đặt cọc để chuyển nhượng cho ông V phần đất nói trên, nhận đặt cọc số tiền 650.000.000 đồng và giao đất cho ông V quản lý, sử dụng. Sau đó, do bị bệnh nặng nên bà H5 ủy quyền toàn phần cho bà H1 đối với quyền sử dụng đất của mình. Bà H1 nhân danh bà H5 ký hợp đồng chuyển nhượng với ông Cao Minh V và nhận số tiền còn lại. Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Lê Thị H1 với ông Cao Minh V đối với thửa đất số 180, tờ bản đồ số 28-2 tọa lạc tại khu C phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương đã được Văn phòng C công chứng số 1206, quyển số 02 TP/CCSCC/HĐGD ngày 13/02/2020. Như vậy, giao dịch chuyển nhượng giữa ông V và bà H1 là ngay tình.
Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm chưa làm rõ ý chí của bà H5 khi ủy quyền toàn phần cho bà H1, chưa làm rõ số tiền bà H1 đã nhận của ông V có được sử dụng vào mục đích điều trị bệnh hay không, đã sử dụng hết bao nhiêu.
(iv)Đối với yêu cầu phản tố tranh chấp di sản thừa kế của bà Lê Thị H1.
Bị đơn bà Lê Thị H1 có đơn yêu cầu phản tố, yêu cầu công nhận di chúc ngày 22/11/2019 do bà Lê Thị Dung H5 lập tại Bệnh viện Đ2 để lại diện tích 114m2 thửa đất số 180, tờ bản đồ số 28-2 địa chỉ tại khu C phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương cho bà Lê Thị H1 là hợp pháp. Xét thấy, di chúc ngày 22/11/2019 có hai người làm chứng là bà Nguyễn Thị Bách T6 và ông Nguyễn Trung H7 nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không lấy lời khai của họ để xác định ý chí của bà H5 khi lập di chúc mà lại căn cứ Điều 638 Bộ luật Dân sự nhận định di chúc lập lại tại bệnh viện nhưng không có xác nhận của người phụ trách bệnh viện nên hình thức của di chúc không đảm bảo theo quy định của pháp luật nên di chúc không có hiệu lực pháp luật và bác yêu cầu của bị đơn là chưa đảm bảo căn cứ vững chắc.