Bản án dân sự phúc thẩm số 228/2023/DS-PT ngày 29/12/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước về việc tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

Nội dung hủy án:

(i) Xác định không đúng và thiếu người tham gia tố tụng:

Cấp sơ thẩm xác định bà Thị P là người làm chứng là xác định chưa đúng tư cách người tham gia tố tụng.

Cấp sơ thẩm xác định bà Thị P là người làm chứng là chưa đúng với quy định tại Điều 68 BLTTDS làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích của bà Thị P , bởi lẽ:

Bà Thị P là mẹ của nguyên đơn ông Điểu T là người trực tiếp đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và cũng là người cùng ông Điểu Nghé (là chồng bà Pơr đã chết) ký hợp đồng tặng cho QSD đất cho ông Điểu T .

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án này là anh Điểu M trình bày vào 2010 cha mẹ ông là bà Thị P và ông Điểu Nghé có tặng cho Điều Tâm và Điểu M mỗi người một nửa diện tích đất trên tổng diện tích khoảng 18.000m2. Anh Điểu M đã quản lý sử dụng phần đất này đến ngày 25/6/2021 mới chuyển nhượng cho Ông Mai Xuân D . Hơn nữa bà Thị P có trình bày về nội dung tặng cho cơ bản như trình bày của Điểu M . Bà Pơr cũng có đơn kháng cáo nhưng không được cấp sơ thẩm chấp nhận với lý do bà Pơr là người làm chứng. Trong nội dung kháng cáo bà Pơr cũng có nêu rõ yêu cầu của mình, trong đó có yêu cầu hủy bỏ hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa ông Điểu Nghé bà Thị P và ông Điểu T tại Văn phòng công chứng Ngọc Huy. Vì vậy, cần phải xác định bà Pơr là người có quyền và nghĩa vụ liên quan mới phù hợp, đảm bảo quyền lợi ích hợp pháp của đương sự.

Cấp sơ thẩm không đưa ông Hoàng Trung Sửu và UBND huyện B vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là xác định còn thiếu người tham gia tố tụng.

- Quá trình giải quyết vụ án ông Hoàng Trung Sửu, sinh năm 1986, địa chỉ khu phố 1, phường Long Phước, thị xã Phước Long, tỉnh Bình Phước có đơn yêu cầu độc lập đề ngày 30/6/2023 gửi Toà án nhân dân huyện B đề nghị công nhận hợp đồng chuyển nhượng ngày 30/11/2022 giữa ông Hoàng Trung Sửu với vợ chồng bà Thuỷ, ông B và công nhận diện tích đất 18999,9m2 tọa lạc tại Thôn Đ, xã Ph, huyện B, tỉnh Bình Phước là của ông Sửu. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm đã trả lại đơn với lý do ông Sửa nộp đơn sau khi Tòa án đã hòa giải.

Nhận thấy, ông Sửu là chủ thể đang quản lý quyền sử dụng đất tranh chấp nên cần phải xác định đưa ông Sửu vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập mới mới phù hợp, đảm bảo quyền lợi ích hợp pháp của đương sự và mới giải quyết triệt để vụ án.

- Theo trình bày của đại diện của nguyên đơn, hợp đồng tặng cho ngày 21/8/2020 giữa ông Điểu Nghé bà Thị P tặng cho ông Điểu T theo giấy CNQSD đất (cũ) cấp ngày 26/6/2014 diện tích là 14984m2. Tuy nhiên, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sau khi tặng cho ông T đã thay đổi diện tích tăng thêm thành 18.999,9m2, diện tích tăng lên là 4015,9 m2. Bị đơn bà Thuỷ trình bày bà được uỷ quyền để đi làm hồ sơ, còn diện tích thế nào do cơ quan Nhà nước cơ quan quản lý đất đai điều chỉnh trong quá trình làm thủ tục tặng cho; nhưng phía nguyên đơn ông T và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là ông Dũng, ông Điểu M có phản đối cho rằng phần tăng lên này là do ý chí của bà Th chứ không phải theo ý chí của ông Điểu Nghé bà Thị P gộp. Vì vậy, cần thiết phải đưa UBND huyện B vào tham gia tố tụng để làm rõ trình tự, thủ tục cấp GCNQSĐ đất cho ông Điểu T và lý do có sự biến động lớn về diện tích so với diện tích trên giấy CNQSD đất (cũ) cấp ngày 26/6/2014.

(ii) Thiếu sót trong việc điều tra, thu thập, đánh giá chứng cứ.

- Ông Nguyễn Văn Phương - Ban tư pháp xã Phú Nghĩa trình bày (bút lục số 314) ông không trực tiếp ký xác nhận vào hợp đồng ủy quyền, chữ ký trong hợp đồng ủy quyền ngày 28/8/2023 giữa ông T và bà Th không phải do ông Phương ký nhưng cấp sơ thẩm chưa làm rõ nội dung này, cụ thể chưa cho các bên đối chất cũng như giám định chữ ký để làm rõ vì liên quan đến hiệu lực của hợp đồng ủy quyền là thu thập chứng cứ chưa đầy đủ.

- Trong quá trình giải quyết vụ án ông Điểu M trình bày, năm 2010 ông được cha mẹ cho đất sau đó đến năm 2018 thì ông Mít cho ông Nguyễn Văn Đan, sinh năm 1990 ở thôn Tân Lập, xã Phú Nghĩa, huyện B thầu 7 năm (2018 - 2025) với số tiền thầu là 19 triệu/năm. Cấp sơ thẩm chưa xác minh, làm rõ nội dung liên quan này là thu thập chứng cứ không đầy đủ.

- Theo trình bày của bà Pơr thì phần diện tích tăng thêm 4.015,9m sau khi thực hiện hợp đồng tặng cho ngày 21/8/2020 là phần đất chưa được cấp trong giấy CNQSD đất cũ. Tại phiên tòa phúc thẩm Ông Mai Xuân D trình bày khi nhận chuyển nhượng của ông Điểu M đất chưa có sổ đỏ; tuy nhiên đất đã có “ phôi”, tức đã có mảnh trích đo, cụ thể thuộc thửa 33, tờ bản đồ 55, diện tích là 9.522,8m2. Vì vậy, để có căn cứ giải quyết đúng đắn vụ án, cần phải thu thập đầy đủ tài liệu liên quan đến sự kiện trên.

Cụ thể có hay không hồ sơ tài liệu kê khai, đăng ký QSD đất của ông Điểu M , ông Điểu T (Sổ mục kê, Thông báo kê khai QSD đất...?)

Qua nội dung trình bày của bà Thị P , ông Điểu M , ông Hoàng Trung Sửu đã thể hiện rõ quyền lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm nhưng Tòa án cấp sơ thẩm từ chối tư cách tham gia tố tụng và không hướng dẫn cho họ thực hiện quyền yêu cầu độc lập của mình theo quy định thủ tục tố tụng; nên chỉ xem xét đến quan hệ tranh chấp Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Điểu T với ông Bằng, bà Th là giải quyết chưa toàn diện, triệt để vụ án

Từ những phân tích trên, nhận thấy cấp sơ thẩm có những vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng; cụ thể là thiếu sót về điều tra, thu thập chứng cứ, đánh giá chứng cứ mà tại cấp phúc thẩm không thể khắc phục được nên cần chấp nhận một phần kháng cáo của nguyên đơn ông Điểu T và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Ông Mai Xuân D hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 21/2023/DS-ST ngày 21/7/2023 của Tòa án nhân dân huyện B , tỉnh Bình Phước để giao hồ sơ cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.

Bài viết liên quan

Góp ý