Bản án dân sự phúc thẩm số 253/2023/DS-PT ngày 11/9/2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng về việc tranh chấp chia di sản thừa kế, tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu và hủy quyết định cá biệt

Nội dung sửa án 

Cụ Lê Đức T chết năm 1947, nhưng đến năm 1975, gia đình ông Lê T (bị đơn) mới chuyển đến sinh sống tại thôn T, xã H L, huyện H rồi thực hiện việc khai hoang đất, sau đó hình thành lên thửa đất 48, tờ bản đồ số 6 cho đến nay. Theo kết quả xác minh tại Công an huyện H, trong hồ sơ khai nhân khẩu hoàn toàn không có thông tin của cụ Nguyễn Thị T. Ngoài ra, thời điểm gia đình bị đơn chuyển đến sinh sống, thì được Hợp tác xã Hoà L phân chia đất tại Đội 15 thôn T, xã H L, huyện H. Lúc này, cụ Nguyễn Thị T đã 75 tuổi và vẫn còn ở thôn A 1, xã Hoà S, huyện H, thành phố Đà Nẵng. N 1989, cụ T mới bán nhà về ở nhà con cháu, anh chị em; năm 1994, cụ T mới về sống chung với gia đình bị đơn và đến năm 1998, cụ T chết. Nội dung nêu trên được Trưởng tộc họ Lê Đức (thôn T S) là ông Lê Đức Nam xác nhận tại Đơn xác nhận ngày 21-12-2020 và được ông Dương Xí (Trưởng thôn) ký xác nhận tại Giấy xin xác nhận ngày 25-02-2021 của ông Lê Đức O. Ngoài ra, tại Biên bản họp tộc ngày 21-12-2020, tộc Lê Đức thôn T S xác nhận “Nguồn gốc đất của ông Lê T là do gia đình ông T khai hoang vỡ hoá và nhận đất thối công khai phá của một số người khác”.

Ông Lê Đức C (ký trong Giấy họp dòng họ ngày 05-12-2019), do nguyên đơn cung cấp đã có Đơn xác nhận ngày 23-02-2021, xác nhận lại có nội dung “Đất đang tranh chấp là đất của gia đình ông Lê T tự khai hoang vỡ hóa và nhận đất thối từ công khai phá”; đồng thời, ông C còn khẳng định nội dung xác nhận của ông tại Giấy xác nhận ngày 01-3-2019 và Biên bản họp dòng họ ngày 05-12-2019 là do ông Lê N và anh Lê Quang H (con ông N) nhờ ông ký xác nhận tại thời điểm ông có men bia trong người, tinh thần không tỉnh táo và ông cũng không để ý đến nội dung trong biên bản viết gì khi ký xác nhận.

Đối với các giấy xác nhận khác của một số người làm chứng do nguyên đơn cung cấp, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng: (1) Giấy xác nhận của ông Nguyễn H, ông Nguyễn Văn S ký ngày 10-9-2019, nhưng lại có chứng thực của UBND xã Hoà L vào ngày 09-9-2019 - Chứng thực trước 01 ngày, (2) Giấy xác nhận của ông Trần N:

Ông N sinh năm 1926, thời điểm năm 2019, ông N đã 92 tuổi, bà Diệu (con dâu của ông N ghi Giấy xác nhận) đã thừa nhận bà viết lại giấy theo ý của ông Lê N, chứ không phải ông N nói để bà viết. Ngoài ra, những người con ruột của ông Trần N xác nhận ông N bị lãng, mất năng lực hành vi từ hơn 10 năm nay, ông Trần N chưa bao giờ tham gia cách mạng như trong giấy đã ghi. Như vậy, Giấy xác nhận của ông Nguyễn H, ông Nguyễn Văn S và ông Trần N không đủ tính xác thực, nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không sử dụng các tài liệu này làm chứng cứ khi giải quyết vụ án.

Quá trình giải quyết vụ án, các đương sự đều thừa nhận cụ Lê Đức T chết năm 1947. Sau khi cụ T chết, cụ Nguyễn Thị T cùng các con ở tại thôn H, xã H Thái, huyện H (nay là xã H L, huyện H). N 1952, cụ Nguyễn Thị T cùng các con về sống tại D, thôn A, xã H T (nay là xã H), huyện H, thành phố Đà Nẵng. N 1975, gia đình ông Lê T về ở tại diện tích đất tranh chấp nêu trên. Ông Lê N và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phía ông Lê N cho rằng diện tích đất nêu trên là của cụ Lê Đức T và cụ Nguyễn Thị T để lại, nhưng các đương sự không cung cấp được tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho trình bày của mình và nội dung này không được bị đơn (ông Lê T) thừa nhận; đồng thời, cụ Lê Đức T và cụ Nguyễn Thị T cũng không có bất kỳ giấy tờ nào theo quy định tại khoản 1, 2 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003 hoặc khoản 1, khoản 2 Điều 100 của Luật Đất đai năm 2013; trên đất tranh chấp không tồn tại bất kỳ tài sản nào của cụ T và cụ T. Ngoài ra, tại khoản 2, khoản 5 Điều 14 của Luật Đất đai năm 1987 quy định: “Nhà nước thu hồi toàn bộ hoặc một phần đất đã giao sử dụng trong những trường hợp sau đây: … 2) Tất cả số người trong hộ sử dụng đất đã chuyển đi nơi khác hoặc đã chết… 5) Người sử dụng đất không sử dụng đất được giao trong 06 tháng liền mà không được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định giao đất đó cho phép”. Do đó, trường hợp nếu diện tích đất tranh chấp là của cụ Lê Đức T, cụ Nguyễn Thị T, nhưng thời điểm từ năm 1947 đến trước năm 1975, hộ cụ T, cụ T không ai quản lý, sử dụng diện tích đất này, nên cũng không còn là tài sản của hai cụ.

T nhiên, trong trường hợp chưa xác minh làm rõ được nguồn gốc thửa đất là của cụ Lê Đức T, cụ Nguyễn Thị T để lại hay do ông Lê T khai hoang và nhận thêm đất do thối công, thì thực tế thửa đất số 48, tờ bản đồ số 6 đã được Hợp tác xã thu và quản lý từ năm 1983, nên thửa đất này không còn được xem là di sản thửa kế của cụ T và cụ T, cụ thể: N 1983, thực hiện chính sách quản lý đất đai của Nhà nước trong toàn quốc, thì trong diện tích 14.650 m2 đất được ông Lê T khai hoang và nhận chuyển nhượng, chính quyền địa phương đã thu hồi diện tích 12.150 m2 đất để đưa vào Hợp tác xã quản lý (ý kiến của Hội đồng đăng ký ruộng đất xã xác nhận tại Đơn xin đăng ký quyền sử dụng đất ngày 17-11-1983). Do đó, tại thời điểm này, diện tích 12.150 m 2 đất đã không còn là đất của cụ T, cụ T hay của ông Lê T mà do Hợp tác xã quản lý.

Sau đó, Hợp tác xã có chính sách cấp lại đất cho các hộ dân (là các xã viên) có nhu cầu trực tiếp sử dụng đất. Lúc này, gia đình ông Lê T có nhu cầu thực tế sử dụng đất, nên đã được Hợp tác xã giao cấp lại đất để sản xuất, trồng trọt. Việc cấp đất này không phụ thuộc vào việc trước đây các xã viên có đất hoặc có bị thu hồi đất hay không, mà đơn thuần chỉ dựa vào nhu cầu thực tế sử dụng đất của xã viên. Như vậy, từ đầu những năm 1980, thửa đất 48, tờ bản đồ số 6 đã được xác lập lại là của ông Lê T mà không còn phụ thuộc vào nguồn gốc trước đó đất này là của ai.

Tại khoản 5 Điều 26 của Luật Đất đai năm 2013 quy định: “Nhà nước không thừa nhận việc đòi lại đất đã được giao theo quy định của Nhà nước cho người khác sử dụng trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” và tại Điều 1 Nghị quyết số 23/2003/QH11 ngày 12-3-2003 của Quốc hội quy định: “Điều 1: Nhà nước không xem xét lại chủ trương, chính sách và việc thực hiện các chính sách về quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa liên quan đến nhà đất đã ban hành trước ngày 01 tháng 7 năm 1991.

Nhà nước không thừa nhận việc đòi lại nhà đất mà Nhà nước đã quản lý, bố trí sử dụng trong quá trình thực hiện các chính sách về quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa liên quan đến nhà đất”.

Như phân tích trên, Nhà nước đã thừa nhận tổng diện tích 14.650 m2 thuộc quyền quản lý, sử dụng của hộ ông Lê T (do Hợp tác xã cấp). Sau này là 15.488 m2 đất, trong đó đất thổ cư là 11.239 m2 thuộc thửa đất số 511, tờ bản đồ 26, theo Giấy CNQSDĐ số I211279 ngày 06-12-1996 thuộc quyền sử dụng của gia đình ông Lê T và 1.506 m2 đất thổ cư thuộc thửa đất 343, tờ bản đồ 26, theo Giấy CNQSDĐ số I 211334 ngày 06-12-1996 thuộc quyền sử dụng của gia đình ông Lê Quang T (con ông Lê T). Toà án cấp sơ thẩm xác định thửa đất đất 48, tờ bản đồ 06 là di sản thừa kế của cụ Lê Đức T và cụ Nguyễn Thị T là không thực hiện đúng quy định tại khoản 2, khoản 5 Điều 14 của Luật Đất đai năm 1987; khoản 5 Điều 26 của Luật Đất đai năm 2013 và Điều 1 Nghị quyết số 23/2003/QH11 ngày 12-3-2003 của Quốc hội khi thừa nhận việc đòi lại nhà đất mà Nhà nước đã quản lý, bố trí sử dụng trong quá trình thực hiện các chính sách về quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa liên quan đến nhà đất, từ đó chia 27 lô đất tái định cư của ông Lê T và Lê Quang T cho nguyên đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn.

Do có cơ sở xác định thửa đất 48, tờ bản đồ 6 (sau này là thửa đất số 511 và thửa đất số 343, cùng tờ bản đồ số 26, thôn T, xã H L, huyện H) không phải là di sản thừa kế của cụ Lê Đức T và cụ Nguyễn Thị T, nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không xác định hàng thừa kế và không chia thừa kế.

Như vậy, kháng cáo của bị đơn và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại phiên tòa là có cơ sở, nên được Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận.

Bài viết liên quan

Góp ý