Nội dung hủy án:
(i) Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Đỗ Xuân L về việc hủy GCNQSD đất số đất số BD 725849 ngày 14/6/2011của UBND huyện Phù N cấp ông Đỗ Văn D và Lê Thị T là không đúng, bởi lẽ:
* Về nguồn gốc thửa đất số 49 tờ bản đồ 49 diện tích theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là 1675m2 trong đó: 300m2 đất ở, 1375m2 đất trồng cây lâu năm; diện tích đo đạc thực tế là 1995,7m2tại khu 4, xã Trung G, huyện Phù N, tỉnh Phú Thọ: Đương sự đều trình bày nguồn gốc thửa đất này là do cụ G, cụ Nguyễn Thị B khai hoang từ những năm 1959 - 1960 và ở trên thửa đất này cho đến khi các cụ chết.Năm 1990 cụ G chết không để lại di chúc, cụ B vẫn ở trên đất. Ngày 07/11/2005, cụ B được UBND huyện Phù N cấp GCNQSD đất số AD 671195 đối với thửa đất số 49, tờ bản đồ số 49 diện tích 1675m2.
Quá trình giải quyết vụ án, ông Đỗ Văn D nộp di chúc giao thừa kế di sản 14/10/2003 có nội dung thể hiện: Cụ Nguyễn Thị B lập di chúc giao ông Đỗ Văn D được hưởng tài sản là 1675m2 đất thổ cư, 5 gian nhà tre lợp ngói, 2 sào ruộng cấy 2 lúa tổng số 500m2 đất màu, 1 bộ trường kỷ cùng 8 giường và toàn bộ số cây cối trên đất thổ cư. Di chúc có hai người làm chứng là ông Đào Văn L1 và bà Hán Thị Đ. Hồ sơ vụ án thể hiện: Do có di chúc này nên 14/6/2011 ông Đỗ Văn D và Lê Thị T được UBND huyện Phù N cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 49, tờ bản đồ 49. * Việc cấp GCNQSD đất đứng tên ông D, bà T trên cơ sở di chúc của cụ B cho ông D. Tuy nhiên, bản án sơ thẩm đãxác địnhdi chúc giao di sản thừa kế ngày 14/10/2003 của cụ B là di chúc không hợp pháp. Thửa đất số 49, tờ bản đồ số 49 tại khu 4, xã Trung G, huyện Phù N, tỉnh Phú Thọ được xác định là tài sản chung của cụ G và cụ B. Cụ G chết không để lại di chúc. Năm 2003 cụ B lập di chúc để cho ông Đỗ Văn D được hưởng tài sản trong đó có toàn bộ thửa đất số 49, tờ bản đồ 49 khi không có sự đồng ý của những người thừa kế của cụ G; cụ B đã quyết định đối với cả phần di sản thừa kế của cụ G để lại là vượt quá quyền đối với tài sản. Hơn nữa, Về trình tự, thủ tục lập Di chúc ngày 14/10/2003: Bản Di chúc của cụ B được xác định là di chúc bằng văn bản (viết tay) nên theo quy định tại Điều 659 của BLDS 1995 thì “Trong trường hợp người lập di chúc không thể tự mình viết bản di chúc, thì có thể nhờ người khác viết, nhưng phải có ít nhất là hai người làm chứng. Người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt những người làm chứng; những người làm chứng xác nhận chữ ký, điểm chỉ của người lập di chúc và ký vào bản di chúc.Việc lập di chúc phải tuân theo quy định tại Điều 656 và Điều 657 của Bộ luật này”. Bản Di chúc có dấu điểm chỉ và có ghi là ngón trỏ phải của cụ Nguyễn Thị B và có chữ ký của 02 người làm chứng và có chứng nhận của UBND xã Trung G.Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm đã tiến hành lấy lời khai của 02 người làm chứng là ông Đào Văn L1 và bà Hán Thị Đ. Tại các Biên bản lấy lời khai của những người này đều thể hiện: Vào trưa ngày 14/10/2003, các ông bà có đến nhà ông D (khu 3, xã Trung G) để ký vào Bản Di chúc giao thừa kế di sản của cụ B, khi các ông bà ký vào bản Di chúc này thì trong bản Di chúc đã có dấu vân tay của cụ B. Các ông bà không được chứng kiến cụ B điểm chỉ vào Di chúc và cũng không biết ai là người viết Di chúc. Mặt khác bà Đ còn trình bày, bà không được nghe ai đọc nội dung của Di chúc và cũng không đọc Di chúc trước khi ký vào bản Di chúc tại mục người làm chứng, bà cũng không được chứng kiến ông Lợi ký vào bản Di chúc. Tại lời khai của ông Trần Tuấn A - Cán bộ Tư pháp UBND xã Trung G thời điểm đó cũng trình bày: Sau khi cụ B điểm chỉ vào Di chúc thì ông có mang bản Di chúc này sang nhà ông L1 và bà Đ để xin chữ ký, trước khi ông Lợi, bà Đường ký ông có đọc lại nội dung của bản Di chúc. Đồng thời sau khi mọi người ký tên vào bản Di chúc thì ông có mang bản Di chúc này về UBND xã Trung G để viết phần xác nhận của UBND xã và trình Chủ tịch UBND xã Trung G là ông Phan Tuấn A ký, đóng dấu.
Tại Biên bản xác minh ngày 26/4/2023 của Luật sư Trần Văn C thuộc công ty luật TNHH luật sư Vĩnh P tại UBND xã Trung G đối với ông Trần Tuấn A cho rằng lời khai tại TAND huyện Phù N là ông đưa bản di chúc của bà B đến nhà ông L1 và bà Đ xin chữ ký là không chính xác, ông cho rằng “ngày 14/10/2003 tôi có mặt nhà bà B và mời ông Lương Công L2 trưởng khu 4 tham dự có ông L1 làm chứng, khoảng một lúc sau bà Đ đến. Do bà B không biết chữ nên tôi đã hướng dẫn ông D viết bản di chúc, tôi đọc bản di chúc cho bà B và mọi người nghe và nhất trí với nội dung di chúc. Tôi trực tiếp lăn tay điểm chỉ của cụ B vào bản di chúc, sau đó hướng dẫn ông L1 ký, bà Đ đến sau tôi có hỏi có cần đọc lại bản di chúc không thì bà Đ nói không cần, nhưng tôi có tóm tắt lại nội dung di chúc cho bà Đ nghe sau đó bà Đ ký vào bản di chúc….” . Tại biên bản xác minh ngày 26/4/2023 ông L1 trình bày: Tại biên bản lấy lời khai 22/6/2021 tại tòa án huyện Phù N ông khai là “Khi tôi đến thì cụ đã điểm chỉ xong, tôi không thấy tận mắt..” lời khai này theo ông L1 là không chính xác. Ông L1 trình bày lại theo như ý kiến của ông Trần Tuấn A. Tại lời trình bày của bà Đường ngày 26/4/2023 thì bà Đường vẫn giữ nguyên các lời khai trước đây. Như vậy, lời khai của ông Lợi và ông Trần Tuấn Anh trước sau có sự mâu thuẫn với nhau, nhưng bà Đ trình bày vẫn giữ quan điểm như những lời khai trước đây tại TAND huyện Phù N. Như vậy, Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 655 của BLDS 1995 quy định một trong các điều kiện để di chúc hợp pháp là: “Nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của pháp luật”. Do đó, Di chúc bằng văn bản của cụ B ngày 14/10/2003 không đúng quy định của pháp luật về hình thức, trình tự, thủ tục lập Di chúc. Như vậy, căn cứ vào các quy định của pháp luật nêu trên thì có căn cứ để xác định Di chúc giao di sản thừa kế ngày 14/10/2003 của cụ B là di chúc không hợp pháp nên trường hợp này được coi là không có Di chúc. Do đó, khi cụ B chết thì thửa đất số 49, tờ bản đồ số 49 được xác định là di sản thừa kế do cụ G và cụ B để lại và được chia theo pháp luật là hoàn toàn phù hợp với quy định tại điểm a khoản 1 Điều 678 BLDS 1995 và khoản 1 Điều 650 của BLDS 2015.
* Về diện tích đất tăng thêm và hình dạng thửa đất: Theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thửa đất số 49, tờ bản đồ 49 tại khu 4, xã Trung G, huyện Phù N, tỉnh Phú Thọ có diện tích theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là 1675m2 trong đó 300m2 đất ở, 1375m2 đất trồng cây lâu năm; diện tích đo đạc thực tế là 1995,7m2 tức là tăng thêm 320,7m2. Theo xác minh tại địa phương thể hiện phần diện tích đất tăng thêm không xác định nằm tại vị trí cụ thể nào. Ngoài ra, hình dạng thửa đất số 49 tờ bản đồ 49 có sự khác nhau giữa bản đồ địa chính với sơ đồ thửa đất trong GCNQSD đất UBND huyện Phù N đã cấp cho ông D, bà T với kết quả xem xét thẩm định tại chỗ của TAND huyện Phù N.
Như vậy, ông L khởi kiện chia di sản thừa kế là thửa đất số 49 tờ bản đồ 49 tại khu 4, xã Trung G, huyện Phù N, tỉnh Phú Thọ là di sản của cụ G, cụ B để lại. Hiện nay, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đang đứng tên ông D, bà T và việc cấp giấy chứng nhận cho ông D, bà T là không đúng quy định của pháp luật, sơ đồ thửa đất kèm theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất khác so với kết quả thẩm định và diện tích thửa đất tăng 320,7m2. Tuy nhiên, bản án sơ thẩm nhận định: Sau khi bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật thì những người thừa kế được nhận di sản bằng hiện vật có nghĩa vụ liên hệ với Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để điều chỉnh biến động hoặc đề nghị cấp lại GCNQSD đất theo quyết định của bản án. Đồng thờiquyết định: Không chấp nhậnyêu cầu hủy GCNQSD đất số BD 725849 do UBND huyện Phù N cấp ngày 14/6/2011 đứng tên ông Đỗ Văn D và Lê Thị T là chưa đúng. Kháng nghị phúc thẩm không có nội dung về việc bản án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Đỗ Xuân L về việc hủy GCNQSD đất số BD 725849 ngày 14/6/2011 của UBND huyện Phù N cấp ông Đỗ Văn D và Lê Thị T là không đúng. Tuy nhiên, xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm vận dụng mục 2 phần II của Công văn 64/TANDTC-PC ngày 03/4/2019của Tòa án nhân dân tối cao nhưng trường hợp này chỉ là hợp đồng chuyển nhượng, chuyển đổi, tặng cho quyền sử dụng đất không phải là thừa.Do đó, cần thiết phải hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đấtsố BD 725849 ngày 14/6/2011 của UBND huyện Phù N cấp ông Đỗ Văn D và bà Lê Thị T. Theo quy định tại mục 7 phần IV Giải đáp số 02/TANDTC-PC ngày 02/8/2021 của TANDTC; khoản 4 Điều 34 BLTTDS và hướng dẫn tại phần II Giải đáp số 02/2016/GĐ-TANDTC ngày 19/9/2016 của TANDTC thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND tỉnh; Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết vụ án không đúng quy định của pháp luật do phải hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Thọ bổ sung nội dung đề nghị hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BD 725849 ngày 14/6/2011 của UBND huyện Phù N cấp ông Đỗ Văn D, Lê Thị T và thay đổi từ đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm từ sửa bản án dân sự sơ thẩm sang đề nghị hủy bản án dân sự sơ thẩm là có căn cứ cần được chấp nhận.
(ii) Bản án quyết định chia di sản thừa kế chưa đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự; chưa xem xét đến quyền lợi của anh Đỗ Minh T, chị Trần Thị Thanh H1. Quá trình giải quyết vụ án: Ông D không nhất trí chia di sản thừa kế. Ông H không nhất trí với yêu cầu khởi kiện của ông L; nếu phải chia di sản ông sẽ nhận di sản nhưng ông tặng cho ông D toàn bộ di sản mà ông được hưởng vì ông đã có đất bố mẹ cho rồi nhưng bản án sơ thẩm không giải quyết nội dung này. Ông L, bà L, ông S, bà N, bà N1 đề nghị chia di sản thừa kế của cụ G, cụ B để lại theo quy định của pháp luật và đều đề nghị được chia di sản bằng hiện vật. Bản án sơ thẩm quyết định: Chia di sản thừa kế cho ông D 863,3m2, thanh toán công sức trông nom quản lý khối di sản thừa kế cho vợ chồng ông D, bà T là 196,8m2 và tạm giao 320,7m2 đất vườn tăng thêm so với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Chia cho bà L, ông L, ông S, ông H mỗi người được hưởng bằng hiện vật hơn 200m2. Còn bà N1, bà N có nguyện vọng được chia thừa kế bằng hiện vật, chưa được bố mẹ tặng cho, quyền sử dụng đất đủ điều kiện để chia bằng hiện vật. Tuy nhiên, bà N1, bà N lại không được chia bằng hiện vật mà được thanh toán bằng tiền là chưa đảm bảo công bằng, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự.
Không những thế, hồ sơ vụ án thể hiện năm 2004, con ông Đỗ Văn D là anh T và chị H1 về ở trên thửa đất số 49, tờ bản đồ 49 tại khu 4, xã Trung G và làm một ngôi nhà nhỏ trên đất, ở cùng với cụ B. Sau đó đến năm 2010, vợ chồng anh T làm ngôi nhà to hơn trên thửa đất đứng tên cụ B. Khi anh T làm nhà, cụ B còn sống, không có ý kiến gì và ở cùng anh T ở trên ngôi nhà đó. Đương sự cũng trình bày khi vợ chồng anh T về ở, chăm sóc cụ B các con cụ B đều nhất trí. Tuy nhiên, bản án sơ thẩm không xem xét đến quyền, lợi ích hợp pháp của anh T, chị H1 đối với thửa đất cũng công sức của anh T, chị H1.
(iii) Đối với phần diện tích 320,7m2 tăng thêm so với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: Tòa án cấp sơ thẩm xác minh tại UBND xã Trung G, huyện Phù N thể hiện: Diện tích tăng thêm này do sai số trong quá trình đo đạc… phần diện tích đất tăng thêm sau này người sử dụng đất làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì không phải nộp tiền sử dụng đất. Phần diện tích đất tăng thêm không xác định nằm tại vị trí cụ thể nào. Bản án sơ thẩm quyết định tạm giao phần diện tích đất tăng thêm là 320,7m2 so với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông D, bà T nhưng chỉ căn cứ vào biên bản xác minh tại UBND xã Trung G để xác định người sử dụng đất không phải nộp tiền sử dụng đất là chưa đảm bảo.
(iv) Bản án sơ thẩm còn có những vi phạm, cụ thể là:
- Trong đơn khởi kiện và đơn khởi kiện bổ sung ông L đề nghị Tòa án chia di sản thừa kế của cụ G và cụ B để lại là quyền sử dụng đất thửa đất số 49, tờ bản đồ số 49 diện tích 1675m2 (trong đó có 300m2 đất ở và 1695,7m2 đất vườn) và 320,7m2 đất vườn tăng thêm; 02 thửa đất lúa gồm: Thửa 90-1 tờ bản đồ số 24, diện tích 144m2 và thửa số 90-2 tờ bản đồ số 24 diện tích 720m2, các thửa đất này đều tại khu 4, xã Trung G, huyện Phù N, tỉnh Phú Thọ. Tòa án đã thụ lý theo yêu cầu và đã thẩm định giá đối với các diện tích đất trên. Ngày 29/10/2022 ông L có đơn xin rút ỵêu cầu chia thừa kế đối với hai thửa đất lúa. Nhưng bản án sơ thẩm không quyết định đình chỉ nội dung này là chưa quyết định đầy đủ các nội dung liên quan đến yêu cầu của đương sự.
- Về chi phí tố tụng ông L đã nộp để xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá đối với thửa đất số 49, tờ bản đồ 49: Ông L đề nghị ai được hưởng di sản thì phải chịu chi phí tố tụng tuy nhiên bà T cũng được thanh toán công sức trông nom, quản lý di sản nhưng bản án sơ thẩm không xem xét nghĩa vụ thanh toán chi phí tố tụng của bà T cho ông L là chưa đầy đủ.
- Về án phí: Ngày 25/7/2019 ông L nộp tạm ứng 300.000đ án phí. Ông L là người cao tuổi đã có đơn xin miễn án phí nhưng bản án sơ thẩm không quyết định ông L được miễn tiền án phí dân sự sơ thẩm và không quyết định về số tiền ông L đã nộp tạm ứng án phí ngày 25/7/2019.