Bản án dân sự phúc thẩm số 36/2023/DS-PT ngày 07/7/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

Nội dung hủy án:

Về kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tuyên Quang:

Quyết định kháng nghị số 01 QĐ-VKS-DS ngày 14/02/2023 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tuyên Quang đối với bản n sơ thẩm số 02/2023/DS-ST ngày 17/01/2023 của Toà án nhân dân huyện S.D được thực hiện trong thời hạn luật định.

Xét kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tuyên Quang, Hội đồng xét xử thấy rằng:

- Nguyên đơn ông Vũ Đình P và bà Bùi Thị Hoàng M có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Ngô Đình Th và bà Nguyễn Thị Kim X có nghĩa vụ giao trả toàn bộ nhà đất theo đúng nội dung Giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất lập ngày 31/10/2012. Trong vụ án những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập nhưng T a n cấp sơ thẩm tuyên xử: Giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày 20/9/2012 giữa bà Dương Thị U, ông Nguyễn Xuân Y, bà Đỗ Thị Ng với ông Ngô Đình Th và bà Nguyễn Thị Kim X vô hiệu; bà U được quyền sử dụng 674,7m2 đất tại thửa số 90, tờ bản đồ số 117 thuộc Tổ dân phố Đ.K, thị trấn S.D, huyện S.D, tỉnh Tuyên Quang và toàn bộ tài sản sản gắn liền với đất là vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện, vi phạm quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự.

- Theo đơn khởi kiện của ông Vũ Đình P và bà Bùi Thị Hoàng M đề nghị Tòa án giải quyết buộc ông Ngô Đình Th và bà Nguyễn Thị Kim X phải giao lại nhà đất theo đúng nội dung Giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất lập ngày 31/10/2012. Quá trình giải quyết vụ n x c định thửa đất có tranh chấp theo bản đồ giải thửa 299 là thửa số 12, tờ bản đồ số 36, diện tích 650,6m2; theo đo đạc hiện trạng đất năm 2012 là thửa đất số 90, tờ bản đồ số 117, diện tích 674m2; theo kết quả đo đạc hiện trạng diện tích 674,7m2; địa chỉ thửa đất tại Tổ dân phố Đ.K, thị trấn S.D, huyện S.D, tỉnh Tuyên Quang. Nguồn gốc thửa đất do Công ty cổ phần chè Tân Trào quản lý và giao quyền sử dụng cho bà Dương Thị U, bà U được giao 01 sổ bìa xông, đất chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Ngày 20/9/2012, bà Dương Thị U chuyển nhượng toàn bộ diện tích đất và tài sản gắn liền trên đất cho ông Ngô Đình Th và bà Nguyễn Thị Kim X với giá 170.000.000 đồng, ông Th, bà X mới trả được 50.000.000 đồng, hẹn trong 01 tháng sẽ trả nốt số tiền còn lại là 120.000.000 đồng, 02 bên thoả thuận cho bà U mượn lại nhà để ở trong thời gian 01 tháng chờ con trai bà U xây xong nhà thì chuyển bà U về ở tại tỉnh Quảng Ninh. Đến hẹn ông Th, bà X không trả hết tiền cho bà U, nhưng ngày 31 10 2012 Ông Th và bà X đã viết giấy chuyển nhượng lại nhà đất trên cho ông Vũ Đình P và bà Bùi Thị Hoàng M. Việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất giữa các bên có viết giấy tờ, có xác nhận của Tổ trưởng tổ dân phố. Trước khi thực hiện việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông P, bà M thì diện tích đất trên vẫn thuộc quyền sử dụng của bà U, chưa thuộc quyền sử dụng của ông Th, bà X. Thời điểm bà U viết Giấy chuyển nhượng đất và tài sản gắn liền với đất cho Ông Th và bà X thì bà U chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, bà U chưa giao nhà đất cho ông Th, bà X và ông Th, bà X cũng chưa trả đủ tiền cho bà U theo thoả thuận. Ông Th, bà X chưa làm thủ tục để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhưng ông Th và bà X lại chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất cho ông P và bà M. Việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất của các đương sự như trên là không đúng quy định tại khoản 1, Điều 106 Luật Đất đai năm 2003. Toà án cấp sơ thẩm tuyên xử:...Giấy chuyển nhượng quyền sử đất và tài sản gắn liền với đất ngày 31/10/2012 giữa ông Ngô Đình Th và bà Nguyễn Thị Kim X với ông Vũ Đình P và bà Bùi Thị Hoàng M vô hiệu là có căn cứ. Tuy nhiên, việc giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu chưa đúng quy định của pháp luật, vì: Khi viết Giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ông P và bà M biết nguồn gốc đất do Ông Th và bà X nhận chuyển nhượng của bà U ngày 20/9/2012, do ông Th, bà X chưa trả hết tiền nên bà U vẫn đang quản lý, sử dụng nhà đất, chưa bàn giao cho ông Th, bà X, chưa làm c c thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật. Ông Th và bà X chưa có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhưng giữa ông Th, bà X với ông P , bà M lại thực hiện việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất. Như vậy, c c bên đương sự đều có lỗi, nhưng T a cấp sơ thẩm x c định lỗi hoàn toàn thuộc về Ông Th và bà X, buộc ông Th và bà X phải chịu trách nhiệm toàn bộ lỗi do hợp đồng bị tuyên vô hiệu là chưa đúng quy định tại khoản 2, khoản 4, Điều 131 Bộ luật dân sự.

Quá trình giải quyết vụ n, nguyên đơn ông P và bà M trình bày nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất với ông Th và bà X giá chuyển nhượng là 350.000.000 đồng; ông Th, bà X trình bày do hoàn cảnh, ông chị có vay của ông P, bà M số tiền 100.000.000 đồng để chữa bệnh cho con gái, sau đó không trả được nên ông P đã yêu cầu ông Th chuyển nhượng lại nhà đất trên. Qua trình bày của các đương sự có mâu thuẫn về nguyên nhân dẫn đến việc giữa các bên viết Giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất và giá trị nhà đất, chưa có căn cứ x c định ông Th và bà X đã giao nhận đủ số tiền 350.000.000 đồng như nguyên đơn trình bày, nhưng T a n cấp sơ thẩm tuyên buộc ông Th và bà X có nghĩa vụ trả lại tiền cho ông P và bà M tương đương giá trị tài sản theo kết quả định giá ngày 11/8/2022 với giá trị 700.000.000 đồng, chịu chi phí thẩm định và định giá tài sản 6.045.000 đồng, phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch 300.000 đồng và án phí dân sự có giá ngạch 32.000.000 đồng là chưa đủ căn cứ, ảnh hưởng đến quyền lợi của ông Th và bà X.

Tại phiên tòa phúc thẩm người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn là bà Vũ Thị A vẫn giữ nguyên việc rút đơn khởi kiện, đồng thời yêu cầu ông Th phải trả cho bà Bùi Thị Hoàng M 500.000.000đ thì bà không khởi kiện nữa. Ông Th không đồng ý các yêu cầu của nguyên đơn. Do vậy, Hội đồng xét xử không chấp nhận việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn và tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục chung.

Từ những đ nh gi nêu trên, Hội đồng xét xử thấy rằng: Việc giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm còn thiếu sót trong việc đ nh gi chứng cứ; xác định lỗi của các bên chưa đúng khi giải quyết về hậu quả của hợp đồng vô hiệu; giải quyết vụ n vượt quá phạm vi khởi kiện của đương sự, những sai sót trên không Thể bổ sung được tại cấp phúc thẩm. Xét, kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tuyên Quang là có căn cứ nên chấp nhận. Vì vậy, cần Hủy bản án dân sự sơ thẩm số 02/2023/DS-ST ngày 17/01/2023 của Toà án nhân dân huyện S.D, chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm nhằm đảm bảo quyền lợi cho đương sự.

Góp ý