Nội dung hủy án:
(i) Yêu cầu ông T1 trả lại diện tích đất lấn chiếm sang Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của nhà bà khoảng 44m2 (chiều rộng 2,2m mặt đường bê tông, chiều sâu khoảng 20m), vị trí đất giáp ranh đất nhà ông T1 đang sử dụng.
Ngày 07/01/2022, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn là ông Vũ Đức N có đơn xin rút một phần yêu cầu khởi kiện, cụ thể là yêu cầu khởi kiện thứ (2), thứ (3).
Ngày 02/12/2021, Tòa án nhân dân huyện Văn Chấn tiến hành xem xét, thẩm định tại chỗ.
Ngày 24/01/2022, Tòa án nhân dân huyện Văn Chấn tổ chức mở phiên họp về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ. Tại phiên họp, nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện: “Yêu cầu hoặc cưỡng chế ông T1 tháo dỡ hàng rào trái phép trên diện tích khoảng 100m2 đất hợp pháp của bà T, hoàn trả lại quyền sử dụng đất của bà”.
Nhưng đến ngày 24/3/2022, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn mới có quan điểm thể hiện: “Theo kết quả đo đạc thẩm định tại thực địa, hôm đó, ông T1 đã cố tình chỉ rộng thêm phần diện tích tranh chấp lấn chiếm ra đến giữa thửa đất, diện tích tăng lên thành 734,2m2 đất”. Bởi vậy, nguyên đơn mới đề nghị Tòa án buộc ông T1 hoàn trả lại quyền sử dụng đất cho bà T diện tích 734,2m2 đất căn cứ vào kết quả đo đạc khi Tòa án cấp sơ thẩm xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 02/12/2021.
Tại Biên bản lấy lời khai của bị đơn là ông Nguyễn Viết T1 cùng ngày 24/3/2022, bị đơn có quan điểm không đồng ý trả lại diện tích 734,2m2 đất nêu trên đồng thời có yêu cầu phản tố đề nghị hủy GCNQSD đất do UBND huyện V cấp cho bà Cao Thị H đối với diện tích 969m2 đất (hiện đã chuyển nhượng cho bà Nguyễn Thị T).
Như vậy, việc thay đổi yêu cầu khởi kiện của người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn được đưa ra sau thời điểm Tòa án mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ mà việc thay đổi yêu cầu khởi kiện này lại vượt quá phạm vi khởi kiện ban đầu, do đó, việc Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu này của nguyên đơn là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
(ii) Mặc dù vậy, tại biên bản xác định ranh giới, mốc giới, diện tích thửa đất đối với chủ sử dụng đất là Cao Thị H lập ngày 13/7/2002 của UBND xã S thì diện tích đất nhà bà Cao Thị H chỉ là 969m2 đất; tại đơn xin đăng ký quyền sử dụng đất của bà Cao Thị H lập cùng ngày cũng chỉ kê khai đăng ký quyền sử dụng diện tích 969m2 đất; GCNQSD đất số 00178 do UBND huyện V cấp ngày 05/9/2002 cho bà Cao Thị H cũng chỉ có diện tích 969m2 đất; tại đơn xin đăng ký biến động đất đai, tài sản gắn liền với đất, bà Nguyễn Thị T đề ngày 22/6/2021, bà T nhận chuyển nhượng đất của bà Cao Thị H diện tích 969m2 đất (Theo hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 22/6/2021) cũng chỉ kê khai, đăng ký biến động đối với diện tích 969m2 đất; trên cơ sở này, Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện V xét nhu cầu, nguyện vọng không có nhu cầu đo đạc, cấp mới GCNQSD đất sau khi nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất của bà Nguyễn Thị T, đã thực hiện thủ tục chỉnh lý, xác nhận việc chuyển nhượng diện tích 969m2 đất trên trang số 04 của GCNQSD đất.
Tuy nhiên, theo kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ và sơ đồ khu đất được đính kèm theo bản án sơ thẩm, diện tích thực tế bà Nguyễn Thị T đang sử dụng là 816,1m2 + 734,2m2 = 1.550,3m2, lớn hơn nhiều so với GCNQSD đất đã cấp cho bà Cao Thị H và được chỉnh lý sang tên bà Nguyễn Thị T. Việc Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị T vô hình chung lại hợp pháp hóa quyền sử dụng toàn bộ 1.550,3m2 đất cho bà Nguyễn Thị T trong khi cấp sơ thẩm chưa tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ chứng minh về lý do diện tích tăng thêm nhiều như vậy, trong khi trình bày của đương sự còn có mâu thuẫn là chưa đảm bảo khách quan, toàn diện. UBND xã S và UBND huyện V cũng không lý giải được lý do diện tích tăng thêm; Khi chưa có cơ sở vững chắc chứng minh, việc công nhận toàn bộ diện tích 1.550,3m2 đất thuộc quyền sử dụng của bà Nguyễn Thị T có thể xâm phạm nghiêm trọng tới quyền lợi của các đương sự khác trong vụ án hoặc người thứ ba hoặc ảnh hưởng tới hoạt động quản lý đất đai của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Cũng tại Biên bản xác định ranh giới, mốc giới thửa đất ngày 30/4/2004, diện tích đất của bà Cao Thị H giáp Công ty cổ phần C1, nhưng tại sơ đồ khu đất đính kèm theo bản án sơ thẩm lại giáp đường lô chè; ngoài ra, kích thước, hình thể thửa đất của bà Cao Thị H tại sơ đồ này về cơ bản cũng không phù hợp với kích thước, hình thể thửa đất thể hiện tại Biên bản xác định ranh giới, mốc giới, diện tích thửa đất được lập ngày 13/7/2002.