Nội dung hủy án:
(i) Xét thấy, cụ Phạm Văn N và cụ Vương Thị N được HTX Nguyễn Đức Mậu cấp đất ở năm 1970 và làm nhà ở cho đến năm 1986 sức khỏe yếu nên vào thành phố Vinh ở với con trai là Phạm Văn Ng. Các đương sự thống nhất về quan hệ huyết thống và nguồn gốc thửa đất tranh chấp nêu trên. Nguyên đơn trình bày năm 1986 (khi chuyển vào thành phố Vinh sống) hai cụ Phạm Văn N và Vương Thị N để lại thửa đất cho anh V và anh D trông coi nhưng không có chứng cứ chứng minh; Phía bị đơn anh Nguyễn Văn V cho rằng, sau khi đón hai cụ vào thành phố Vinh, ông Ng trở lại và bán nhà đất cho vợ chồng ông B (sau đó ông B để cho vợ chồng anh V ra ở riêng trên diện tích này). Bị đơn anh D trình bày được HTX Nguyễn Đức Mậu cấp năm 1990 (cắt một phần đất thừa của hộ anh V, việc cấp đất của hộ anh D do ông Hồ Minh T và ông Nguyễn Văn Ng - nguyên phó chủ nhiệm HTX thực hiện). Tuy nhiên cả anh V và anh D cũng đều không cung cấp được tài liệu chứng minh. Tòa án sơ thẩm không làm rõ các nội dung còn mâu thuẫn trên để làm căn cứ xem xét nguồn gốc đất cấp cho bị đơn cũng như xác định chính xác di sản thừa kế của cụ N, cụ N là thiếu sót.
(ii) Cấp sơ thẩm xác định di sản là quyền sử dụng đất của cụ Phạm Văn N và cụ Vương Thị N (hai cụ được nhà nước cấp từ năm 1970 và sử dụng đến năm 1997) do bị đơn quản lý theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số K 700483 cho anh Nguyễn Văn V đối với thửa đất số 729 là 430 m2 (đã bị Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An hủy theo bản án số 02/2018/HC-PT ngày 25/5/2018). Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho anh Hồ Văn D thửa đất số 730 diện tích 267 m2. Tuy nhiên, diện tích có sự thay đổi, theo kết quả thẩm định thì hiện trạng thửa 730 là 307,9 m2 , thửa 729 là 754 m2. Anh V và anh D trình bày diện tích tăng thêm là do khai phá, còn UBND xã thì cho rằng ranh giới thửa đất ổn định, sai số do đo đạc qua các thời kỳ, tại phiên tòa ông Ng cho rằng không có việc khai phá. Hồ sơ vụ án thể hiện trên thửa đất số 729, tờ bản đồ số 114 -70 tại thôn 13, xã S, huyện Quỳnh Lưu còn có nhà của chị Nguyễn Thị L. Tòa án sơ thẩm chưa làm rõ các nội dung còn mâu thuẫn chưa xác minh hiện trạng cụ thể của thửa đất 729 như thế nào? có liên quan đến quyền lợi của chị L không?, trên đất gồm có tài sản gì? thuộc quyền sở hữu của ai, là chưa xem xét vụ án một cách triệt để.
(iii) Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện, hủy một phần Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số I 782840 do UBND huyện Quỳnh Lưu cấp năm 1997 đối với thửa 730 diện tích 267m² và một phần quyết định số 07/QDUB, tuy nhiên tại phiên tòa phúc thẩm, anh D cho rằng Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của thửa 730 trên đã được thay thế và xuất trình bản sao Giấy Chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên Hồ Quang D được cấp ngày 06/9/2019. Như vậy, tài liệu trên là tình tiết mới cần được xem xét, làm rõ.
(iv) Cấp sơ thẩm xác định chia thừa kế của cụ Vương Thị N chết năm 1990 và cụ Phạm Văn N chết năm 1993 nhưng không chia di sản của hai cụ theo từng thời điểm mở thừa kế; không tuyên cụ thể các kỷ phần thừa kế được hưởng mà buộc các bên giao nhận tài sản cho nhau là không phù hợp. Tài liệu chứng cứ tại hồ sơ vụ án thể hiện anh Nguyễn Văn V, chị Nguyễn Thị H sử dụng đất từ năm 1988; anh Hồ Văn D và chị Pham Thị H sử dụng đất từ năm 1990, cấp sơ thẩm chỉ xem xét công sức tôn tạo, làm tăng giá trị đất cho anh D và anh V (không xem xét công sức của chị Nguyễn Thị H, chị Phạm Thị H) là chưa đầy đủ. Ngoài ra, phần diện tích được giao cho các bên không có sơ đồ kèm theo dẫn đến khó khăn cho công tác thi hành án.
(v) Tổng hợp các phân tích trên cho thấy kháng nghị phúc thẩm số 33/QÐKNPT VC1-DS ngày 26/10/2022 của VKSND cấp cao tại Hà Nội và kháng cáo của anh Hồ Văn D là có căn cứ. Do có tình tiết mới và một số nội dung chưa được làm rõ, cấp phúc thẩm không thể khắc phục được nên cần hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại theo quy định như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội.