Bản án dân sự phúc thẩm số 776/2024/DS-PT ngày 17/9/2024 của Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh về việc tranh chấp quyền sử dụng đất, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hợp đồng vay tài sản, hợp đồng góp vốn, hợp đồng tín dụng và hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng

Nội dung sửa án 

(i) Tại điểm b khoản 1 Điều 287 Bộ luật tố tụng dân sự quy định: “Đương sự được quyền bổ sung tài liệu, chứng cứ sau đây trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm: Tài liệu, chứng cứ mà Tòa án cấp sơ thẩm không yêu cầu đương sự giao nộp hoặc đương sự không thể biết được trong quá trình giải quyết vụ việc theo thủ tục sơ thẩm.”

Trong thời gian chuẩn bị xét xử phúc thẩm, Ngân hàng NCB nộp bản sao có công chứng Di chúc ngày 25/12/1995 của cụ Mai Thị T10. Bà Nguyễn Thị H1 và anh Ngô Hồng X vẫn thừa nhận cụ T10 lập di chúc, nhưng có ý kiến là di chúc của cụ T10 không có đủ các con của cụ H10, cụ T10 ký tên trong di chúc (còn thiếu chữ ký của bà Ngô Thị T11 do đã chết và thiếu chữ ký của ông Ngô Văn M). Mặt khác, đương sự đã khởi kiện vụ án đã rất lâu, từ tháng 5 năm 2015, việc hủy Bản án sơ thẩm để giải quyết lại sơ thẩm như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh cũng chỉ làm kéo dài thời gian giải quyết vụ án, nên không nhất thiết phải hủy Bản án sơ thẩm để giải quyết lại sơ thẩm.

(ii) Bà Ngô Thị L3 là chủ sử dụng hợp pháp và được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với Thửa đất số 193 và thửa đất số 206, nên các giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng hai thửa đất trên giữa các đương sự: Ngô Thị L3, Nguyễn Hồng V4, Hồ Thị Kim H9, Bạch Thành M1, Nguyễn Phước H5, Đinh Gia H đều hợp pháp theo quy định tại Điều 697 và Điều 698 Bộ luật dân sự năm 2005 và hiện nay các đương sự này cũng đều không có tranh chấp với nhau trong việc chuyển nhượng hai thửa đất này. Người nhận chuyển nhượng cuối cùng là ông Đinh Gia H cũng đã được Ủy ban nhân dân thành phố Châu Đốc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số vào sổ cấp GCN: CH 04800 ngày 25/12/2013 đối với Thửa đất số 193, diện tích 405,7 m2 và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số vào sổ cấp GCN: CH 04824 ngày 23/01/2014 đối với Thửa đất số 206, diện tích 207,4 m2, cùng Tờ bản đồ số 35 xã Núi Sam, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang là có căn cứ. Bản án sơ thẩm đã chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Ngô Văn M và bà Nguyễn Thị H1, hủy hai Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất nêu trên của ông Đinh Gia H là không phù hợp.

(iii) Theo quy định tại mục 4 khoản 19 Điều 1 Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22/02/2012 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm:“Trong trường hợp chỉ thế chấp quyền sử dụng đất mà không thế chấp tài sản gắn liền với đất và người sử dụng đất không đồng thời là chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất thì khi xử lý quyền sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất được tiếp tục sử dụng đất theo như thỏa thuận giữa người sử dụng đất và chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất, trừ trường hợp có quy định khác. Quyền và nghĩa vụ giữa bên thế chấp và chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất được chuyển giao cho người mua, người nhận chính quyền sử dụng đất”. Trong vụ án này, khi ký kết hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất, mặc dù bên thế chấp (ông Đinh Gia H) và bên nhận thế chấp (Ngân hàng NCB) đều biết rõ trên hai thửa đất thế chấp có nhà của ông Ngô Văn M, bà Nguyễn Thị H1 và nhà của bà Ngô Thị Diệu H2, nhưng vẫn thỏa thuận thế chấp quyền sử dụng đất mà không thế chấp hai căn nhà trên đất (nhà của ông Ngô Văn M, bà Nguyễn Thị H1 và nhà của bà Ngô Thị Diệu H2), nhưng do hợp đồng thế chấp có nội dung và hình thức phù hợp với quy định của pháp luật, nên theo Án lệ số 11/2017/AL thì hợp đồng thế chấp vẫn có hiệu lực pháp luật.

Do đó, việc Tòa án cấp sơ thẩm đã không chấp nhận yêu cầu độc lập của Ngân hàng NCB, mà chấp nhận yêu cầu của bà Ngô Thị Diệu H2, đã tuyên bố vô hiệu hợp đồng thế chấp quyền sử dụng diện tích 405,7 m2 thuộc Thửa đất số 193 và diện tích 207,4 m2 thuộc Thửa đất số 206 giữa ông Đinh Gia H với Ngân hàng NCB theo các hợp đồng thế chấp tài sản ngày 27/5/2014 và ngày 16/6/2015 và Phụ lục hợp đồng ngày 04/6/2015, là không phù hợp.

Bài viết liên quan

Góp ý