Bản án dân sự phúc thẩm số 82/2024/DS-PT ngày 30/9/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ về việc tranh chấp quyền sử dụng đất

Nội dung sửa án:

Về ranh giới thực tế và diện tích đất của hai thửa đất: Theo quy định tại điểm 1.2 khoản 1 Điều 11 Thông tư số 25/2014/TT- BTNMT ngày 19/5/2014 của Bộ Tài nguyên và Môi trường thì: “Ranh, giới thửa đất được xác định theo hiện trạng đang sử dụng, quản lý và chỉnh lý theo kết quả cấp Giấy chứng nhận, bản án của tòa án có hiệu lực thi hành, kết quả giải quyết tranh chấp của cấp có thẩm quyền, các quyết định hành chính của cấp có thẩm quyền có liên quan đến ranh giới thửa đất”. Do hiện nay ranh giới theo hiện trạng sử dụng đất đang có sự không khớp nhau giữa hai chủ sử dụng đất và thửa đất số 39 đã được cấp GCNQSD đất nhưng việc đo đạc để cấp GCNQSD đất đối với thửa đất số 39 của hộ ông Nguyễn Bá C, bà Trần Thị N không đảm bảo quy định của pháp luật nên cũng không thể căn cứ vào ranh giới của Bản đồ địa chính và hồ sơ cấp đất để xác định chính xác giữa hai hộ. Vì vậy, cần căn cứ biên bản hoà giải xác định ranh giới từ chủ sở hữu giai đoạn trước, những người làm chứng cũng như thực trạng sử dụng đất để xác định ranh giới thực tế giữa hai hộ. Ngày 19/9/2024, Toà án nhân dân tỉnh Phú Thọ đã tổ chức thẩm định lại, nguyên đơn xác định ranh giới theo ranh giới của tờ trích đo Bản đồ địa chính, bị đơn xác định ranh giới theo đường rãnh nước (chỗ có rãnh nước chỗ không) và vị trí 1 cây cọ còn xót lại chạy từ chân đồi lên đỉnh đồi. Căn cứ vào ranh giới các bên chỉ, căn cứ vào biên bản hoà giải lần 1 ngày 19/01/2021, căn cứ lời khai của những người làm chứng có cơ sở để xác định ranh giới thực tế giữa hai hộ trùng với vị trí mà bị đơn xác định, và thực tế phần diện tích đất đang tranh chấp do bị đơn sử dụng đã trồng và khai khác nhiều lần.

Đồng thời, năm 1999 ông Dương Huỳnh Đ được UBND xã P N giao khoán đất trồng cây lâm nghiệp với diện tích 13.337m2 đất rừng sản xuất thuộc thửa số 129A, lô 129 (nay là thửa số 77) đến năm 2003 vợ chồng ông Đ đã chuyển nhượng diện tích đất trên cho vợ chồng nguyên đơn. Năm 2010 UBND xã P N đã giao cho vợ chồng nguyên đơn thêm diện tích của trường bắn. Thời điểm UBND xã P N giao thêm đất trường bắn cho ông C bà L không có bản đồ thể hiện diện tích đất giao là bao nhiêu, hồ sơ vụ án không có tài liệu nào chứng minh việc giao đất ở trường bắn cho ông C bà L là bao nhiêu diện tích đất. Còn về diện tích đất của bị đơn, thì ông T là chủ sở hữu ban đầu của thửa đất số 39 cũng xác nhận khi ông nhận khoán thửa đất này thì UBND xã P N chỉ giao khoán để canh tác sử dụng 17.086m2 đất lâm nghiệp thuộc lô 129 thửa số 129B tại Khu X, xã P N, huyện P N, tỉnh Phú Thọ còn thực tế không đo đạc nên diện tích 17.086m2 cũng chưa phải là diện tích chính xác của thửa đất mà cần phải đo đạc cụ thể dựa trên ranh giới giữa hai hộ. Tuy nhiên, quá trình đo đạc cấp GCNQSD đất đã không thực hiện việc đo đạc mốc giới giữa hai hộ theo quy định của pháp luật. Vì vậy, TAND cấp sơ thẩm căn cứ vào Bản đồ địa chính để xác định tổng diện tích đất của thửa đất số 77 bao gồm diện tích đất gộp thêm là 27.077,1m2; xác định diện tích của thửa 39 là 17.086m2 và xác định ranh giới đất giữa các bên theo ranh giới của bản đồ địa chính để xác định 2535m² đang tranh chấp thuộc thửa đất số 77 là không chính xác và không có căn cứ.

Từ những phân tích nêu trên có đủ cơ sở xác định: Toà án cấp sơ thẩm chưa đánh giá đầy đủ quá trình đo đạc để vẽ Bản đồ cấp GCNQSD đất; chưa xem xét về ranh giới thực tế được chính các chủ sở hữu trước xác nhận và ý kiến của những người làm chứng, thực trạng sử dụng dụng đất của bị đơn mà chỉ căn cứ vào ranh giới Bản đồ cấp GCNQSD để giải quyết vụ án. Tại giai đoạn phúc thẩm, đương sự có đề nghị trưng cầu giám định tờ trích đo Bản đồ cấp GCNQSD đất; kết quả giám định là tình tiết mới khẳng định thêm việc đo đạc Bản đồ cấp GCNQSD đất chưa đảm bảo quy định của pháp luật. Vì vậỵ, việc Toà án cấp sơ thẩm căn cứ Bản đồ cấp GCNQSD đất để xác định 2535m² diện tích đang tranh chấp thuộc thửa đất số 77 của hộ ông C và chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông C là không đúng, chưa đánh giá khách quan, toàn diện chứng cứ trong hồ sơ vụ án.

Bài viết liên quan

Góp ý