Nội dung sửa án:
Qua xác minh những người sống gần đất tranh chấp và những người thuê đất xác định đất tranh chấp là của ông bà của ông N để lại cho ông N (bút lục 97, 98, 107, 189, 190, 191, 192, 193, 194). Con mương bên đất ông N là người mướn đất ông N trồng mì móc để thoát nước (Bút lục 188). Giữa đất ông T với ông N là ông T tự móc mương để xác định ranh đất giữa ông T với ông N (bút lục 99,100). Hơn nữa bà Nguyễn Thị L2 là người bán đất cho ông T xác định diện tích đất ông T tranh chấp với ông N bà L2 không chuyển nhượng cho ông T phần đất này là của ông bà ông N để lại cho ông N (bút lục 95, 96). Nên ông N là người trực tiếp khai phá, quản lý, sử dụng, công khai, liên tục, ổn định, lâu dài, không ai tranh chấp từ năm 1974 cho đến nay là 50 năm. Còn ông T chỉ đứng tên trong sổ địa chính, sổ mục kê năm 2010 thể hiện diện tích 4. 964,4 m2 loại đất lúa là không đúng loại đất mà ông T kê khai đăng ký được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích 4.000m2, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: 00946QSDĐ/450507 ngày 30-12-1997. Trong 4.000 m2 ông T được cấp có 400m2 là đất (T) thổ và 3.600m2 đất ĐRM ( bút lục 94). Nhưng cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Văn T. Buộc ông Lưu Quang N giao cho ông T diện tích 964,4m2 là không có cơ sở. Do đó, có căn cứ chấp nhận đơn kháng cáo của ông Lưu Quang N.