Bản án hành chính phúc thẩm số 05/2018/HC-PT ngày 23/4/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai về việc khiếu kiện quyết định hành chính về thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

Nội dung hủy án:

(i) Tại cấp phúc thẩm, Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai tiến hành thủ tục tống đạt Thông báo thụ lý vụ án, giấy triệu tập đương sự, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa, Quyết định tạm ngừng phiên tòa đều tống đạt không thành công cho bà Phạm Thị A, ông Nguyễn Văn H5, ông Nguyễn Mạnh T5.

(ii) Qua xác minh cho thấy, bà A đã bán nhà, bỏ địa phương đi từ năm 2016, từ trước khi Tòa án sơ thẩm xét xử, hiện nay Chính quyền địa phương không biết bà A chuyển đi cư trú ở đâu. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm đã không tống đạt thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và đối thoại, thông báo hoãn phiên họp về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và đối thoại cho bà A. Khi tống đạt Quyết định xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa cho bà A, Tòa án cấp sơ thẩm đều xác định địa chỉ nơi bà A cư trú là khu phố 1, phường T1, thành phố B, tỉnh Đồng Nai và giao cho bà Nguyễn Thị Thanh H1 (địa chỉ: đường B, khu phố S, phường T2, quận T3, thành phố Hồ Chí Minh) và ông Huỳnh Thanh D (địa chỉ: đường B, khu phố S, phường T2, quận T3, thành phố Hồ Chí Minh) cam kết giao lại (bút lục 598, 615), hai người này không cư trú cùng địa chỉ với bà A.

(iii) Đối với ông Nguyễn Mạnh T5, Tòa án nhân dân thành phố Bà Rịa Vũng Tàu đã thực hiện nội dung ủy thác của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai và xác minh nơi cư trú của ông T5 tại địa chỉ đường T, phường S (nay là phường T9), thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Tuy nhiên ông T5 đã bỏ đi khỏi địa chỉ trên khoảng 6-7 năm, không rõ địa chỉ đến. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm vẫn giải quyết vụ án và không tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho ông T5. Cụ thể, các thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và đối thoại, Tòa án cấp sơ thẩm đã không tống đạt cho ông T5 (bút lục 513, 524, 568), thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và đối thoại, Quyết định xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa Tòa án cấp sơ thẩm giao cho ông Huỳnh Thanh D (địa chỉ: đường B, khu phố S, phường T2, quận T3, thành phố Hồ Chí Minh) và bà Nguyễn Thị Thanh H1 (địa chỉ: đường B, khu phố S, phường T2, quận T3, thành phố Hồ Chí Minh) cam kết giao lại (bút lục 584, 599, 616), hai người này không cư trú cùng địa chỉ với ông T5.

Việc bà A và ông T5 bỏ đi khỏi nơi cư trú và không thông báo cho Tòa án biết về địa chỉ mới thì Tòa án cấp sơ thẩm lẽ ra phải xác minh đồng thời thực hiện thủ tục niêm yết công khai hoặc thủ tục thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng theo quy định tại khoản 3 Điều 177 BLTTDS. Do đó việc Tòa án cấp sơ thẩm không tống đạt và tống đạt cho ông D, bà H1 là những người không cùng nơi cư trú nhận thay và cam kết giao lại là vi phạm thủ tục cấp tống đạt cho đương sự quy định tại khoản 5 Điều 177 BLTTDS.

(iv) Đối với ông Nguyễn Văn H5, khi Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai tống đạt Thông báo thụ lý cho ông H5 thì được biết ông H5 đã chết và gia đình từ chối nhận thay. Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai đã tiến hành xác minh và được UBND xã N, huyện N1, tỉnh Nam Định cung cấp giấy chứng tử của ông Nguyễn Văn H5 đã chết từ ngày 26/8/2014. Tuy nhiên trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm vẫn giải quyết vụ án và không tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho ông H5. Cụ thể, các thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và đối thoại, Tòa án cấp sơ thẩm đã không tống đạt cho ông H5 (bút lục 513, 524, 568), thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và đối thoại, Quyết định xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa Tòa án cấp sơ thẩm giao cho ông Huỳnh Thanh D (địa chỉ: đường B, khu phố S, phường T2, quận T3, thành phố Hồ Chí Minh) và bà Nguyễn Thị Thanh H1 (địa chỉ: đường B, khu phố S, phường T2, quận T3, thành phố Hồ Chí Minh) cam kết giao lại (bút lục 585, 600, 617), hai người này không cư trú cùng địa chỉ với ông H5. Tòa án cấp sơ thẩm đã không tống đạt văn bản và tống đạt không hợp lệ là giao cho ông D, bà H1 là những người không cùng nơi cư trú nhận thay và cam kết giao lại cho ông H5 nên không phát hiện việc ông H5 đã chết để đưa những người thừa kế của ông H5 vào tham gia tố tụng với tư cách là người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông.

(v) Yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện là đối với Quyết định số 7871 ngày 08/10/2012 của UBND huyện V về việc hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và Quyết định số 7872 ngày 08/10/2012 của UBND huyện V về việc thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Ngày 13/7/2017 UBND huyện V ban hành Quyết định số 3177 về việc thu hồi Quyết định 7871 ngày 08/10/2012 của UBND huyện V. Lý do thu hồi: nội dung của Quyết định số 7871/QĐ-UBND không phù hợp với quy định pháp luật tại thời điểm Quyết định được ban hành. Tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện ông D vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Do đó khi xét xử Tòa án cấp sơ thẩm phải xem xét trình tự, thủ tục, thẩm quyền ban hành cả ba quyết định trên. Việc cấp sơ thẩm chỉ xem xét và giải quyết bác yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện với hai Quyết định 7871 và 7872 là vi phạm khoản 1 Điều 6 Luật tố tụng hành chính, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.

(vi) Về thu thập chứng cứ: tại cấp phúc thẩm, người khởi kiện khiếu nại việc trưng cầu giám định của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đồng Nai; khiếu nại biên bản giám định của Cơ quan điều tra và đề nghị giám định lại: Việc có hay không có kết luận giám định và những mâu thuẫn trong quá trình tiến hành giám định màbà T đã nêu trong đơn khiếu nại là những tình tiết và những chứng cứ quan trọng cần phải được xác minh, thu thập tại Tòa án cấp sơ thẩm dù có hay không có yêu cầu của đương sự, bởi lẽ đây là những chứng cứ dùng làm căn cứ để UBND huyện thu hồi giấy chứng nhận QSD đất đã cấp cho người khởi kiện. Tòa án cấp sơ thẩm còn phải làm rõ hiệu lực của Quyết định giải quyết việc dân sự về việc tuyên bố người mất năng lực hành vi dân sự của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa đối với ông Nguyễn Mạnh H, do hồ sơ ông Đ cung cấp thể hiện quyết định chưa có hiệu lực pháp luật (bút lục 104-105). Đồng thời cần làm rõ có hay không có quyết định, bản án có hiệu lực pháp luật tuyên bố các giao dịch dân sự gồm hợp đồng ủy quyền giữa ông H với bà H1, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà H1 với ông Nguyên Văn T6, văn bản thỏa thuận phân chia di sản giữa ông T6 và các con ngày 13/5/2009 bị vô hiệu hay có hiệu lực pháp luật mới có đủ căn cứ vững chắc khẳng định UBND thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho bà T là đúng hay sai.

Bài viết liên quan

Góp ý