Bản án hành chính phúc thẩm số 254/2023/HC-PT ngày 20/4/2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh về việc Khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai về việc yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

Nội dung hủy án:   

(i) Xét căn cứ cấp các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: Các chứng cứ thể hiện các Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH 965108, số CH 965109, số CH 965110 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bình Dương cấp cùng ngày 05/6/2017 cho ông Nguyễn Minh V, ông Nguyễn Văn H, bà Nguyễn Thị H1, ông Nguyễn Văn H2, bà Nguyễn Thị L, ông Nguyễn Công L1 trên cơ sở kê khai thừa kế quyền sử dụng đất theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 77 QSDĐ/PT ngày 26/3/1996 do UBND thị xã (nay là thành phố) M cấp cho cụ Ngô Thị Q. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 77 QSDĐ/PT ngày 26/3/1996 do UBND thị xã M cấp cho cụ Q trên cơ sở các quyết định gồm Quyết định số 42/QĐ.UB ngày 29/6/1994 của UBND thị xã M, Quyết định số 1572/QĐ.UB ngày 22/4/1995 và Quyết định số 5564/QĐ-UB ngày 23/12/1995 của UBND tỉnh Sông Bé, Quyết định số 176/QĐ-UB ngày 26/3/1996 của UBND thị xã M. Trong trường hợp này, mặc dù ông M không khởi kiện các Quyết định số 42/QĐ.UB, 1572/QĐ.UB, 5564/QĐ.UB, và 176/QĐ-UB, nhưng đây là các quyết định có liên quan đến quyết định bị khởi kiện nên khi giải quyết vụ án Tòa án cũng cần phải xem xét tính hợp pháp, tính có căn cứ của các quyết định nêu trên.

(ii) Theo phía gia đình bà Hồng trình bày thì khu đất ông M yêu cầu hủy các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên có nguồn gốc của cố Ngô Văn T3, diện tích 4,05ha, tọa lạc tại xã Phú Hòa, thị xã M, tỉnh Bình Dương theo Trích lục địa bộ số 283 ngày 27/8/1971 (BL 745). Tại Tòa án cấp phúc thẩm, bà Nguyễn Thị H1 cung cấp bản phô tô Tờ trích lục địa bộ số 152 ngày 24/6/1974 (BL 746) để chứng minh cho việc cụ Q được các đồng thừa kế của cụ T3 đồng ý cho hưởng phần đất 4,05ha nêu trên. Bản trích lục địa bộ số 152 ngày 24/6/1974 có nội dung “Điều chỉnh diện tích trở lại là 2.54.59. thay vì 2.30.00 số địa bộ 152 chiếu biên bản đo cấm ranh và phân chiết của Trắc Địa Sư Nguyễn Văn Hoài lập tại Phú Cường ngày 17/3/1974 do Ty Điền Địa Bình Dương duyệt số 531Đ Đ, BD/KT.KS ngày 17/5/1974 và chiếu theo đơn xin của Ngô Thị Q thừa kế của Ngô Văn T3 ngày 3/4/1974, trước bạ ngày 9/4/74, quyển 16, tờ 31, số 161, cước bộ ngày 4/6/74, số 391…

… Các cuộc di chuyển: Các thừa kế của Ngô Văn T3 đồng thỏa thuận chiết bán cho. 1) Vợ chồng Nguyễn Thị Năm và T3 Văn Thế lô C, diện tích 0.69.77; vợ chồng Tiêu Thị Ba, Nguyển Văn Gắt lô B, diện tích 0.53.33 chiếu theo biên bản đo cắm ranh và phân chiết của Trắc địa sư Nguyễn Văn Hoài lập tại Phú Cường ngày 17/3/73 do Ty Điền địa Bình Dương duyệt số 531 Đ ĐBD/KT.KS ngày 17/5/74 chiếu theo tờ bán chiết và tông chi trước bị tại Phú Cường ngày 9/4/74 quyển 16, tờ 31, số 159, 160 cước bộ ngày 4/9/74, số 392 (xem khoản 1095, 1096)”. Bà Hồng còn nộp bản chính Biên lai thu thuế 119586 (BL 724) và trình bày đây là biên lai đóng thuế đất vườn của cụ Q năm 1975, theo Biên lai này thì diện tích đất cụ Q đóng thuế là 1ha. Như vậy, các chứng cứ này có sự mâu thuẫn với nhau. Vì Bà Hồng cho rằng cụ Q được thừa kế của cố T3 4,05ha đất, tọa lạc tại xã Phú Hòa, thị xã M, tỉnh Bình Dương theo Trích lục địa bộ số 283 ngày 27/8/1971, nhưng tại nội dung Bản Trích lục địa bộ số 152 ngày 24/6/1974 thể hiện khu đất của cố T3 đã có sự chuyển nhượng cho nhiều người khác; theo Biên lai nộp thuế ngày 22/10/1974, diện tích đất cụ Q đóng thuế là 4,05ha, nhưng theo Biên lai nộp thuế ngày 06/01/1975 thì diện tích đất cụ Q đóng thuế chỉ là 1ha.

(iii) Tại nội dung các Quyết định số 42/QĐ.UB, 1572/QĐ.UB, 5564/QĐ.UB, 176/QĐ-UB và các văn bản của các cơ quan có thẩm quyền ban hành trong quá trình giải quyết khiếu nại gồm Báo cáo số 38/BC/ĐĐ ngày 10/12/1994 của Chi cục quản lý đất đai tỉnh Sông Bé, Báo cáo số 71/BC/Ttr của ngày 20/10/1995 của Thanh tra tỉnh Sông Bé, Báo cáo số 20/BC-UBND ngày 28/01/2015 của UBND thành phố M đã căn cứ vào các chứng cứ gồm bản Trích lục địa bộ số 283 ngày 27/8/1971; Bản trích lục địa bộ số 152 ngày 24/6/1974; Đơn xin khiếu nại của ông Đoàn Tấn L1 ngày 02/5/1993; Biên bản giải quyết đơn khiếu nại của cụ Ngô Thị Q do UBND xã Phú Hòa lập ngày 31/5/1993… từ đó cho rằng nguồn gốc đất tranh chấp của cố T3 và cụ Q được các đồng thừa kế của cố T3 đồng thuận lập tờ ủy quyền cho cụ Q được quyền sử dụng. Các văn bản này cũng cho rằng bà K1, ông L1 đã thừa nhận đất tranh chấp là của cụ Q, từ đó buộc bà K1 phải trả đất cho cụ Q. Tuy nhiên, Bản Trích lục địa bộ số 152 ngày 24/6/1974 thể hiện khu đất của cố T3 đã có sự chuyển nhượng cho nhiều người khác, nên chưa xác định diện tích đất còn lại chính xác là bao nhiêu. Các chứng cứ làm căn cứ ban hành các quyết định nêu trên trong hồ sơ vụ án đều là bản phô tô không có công chứng, chứng thực hợp pháp, nên chưa đảm bảo cho việc đánh giá các chứng cứ này một cách khách quan, toàn diện, đầy đủ và chính xác.

(iv) Trong khi đó, trong quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm, ông M cũng cung cấp các chứng cứ trong hồ sơ vụ án gồm Giấy chứng nhận đã đăng ký ruộng đất ngày 30/10/1983 thể hiện ông L1 đã đăng ký diện tích đất là 6.500m2; các Biên lai thuế do ông M cung cấp thể hiện gia đình ông L1 đã đóng thuế liên tục tử năm 1983 đến năm 2011. Ông M còn cung cấp Bản tường trình của bà K1 ngày 15/12/1998, Đơn xin xác nhận của ông Đoàn Tấn L1 ngày 22/3/2005 có nội dung 6.500m2 đất này có nguồn gốc của cố T3 để lại, cụ Ng là cháu nội cố T3 về ở trên đất từ năm 1972. Chứng cứ này đều được UBND phường Phú Thọ xác nhận nội dung ông L1, bà K1 trình bày là đúng. Như vậy, theo các chứng cứ của ông M cung cấp đã thể hiện gia đình cụ Ng sau đó là bà K1, ông L1, ông M đã sử dụng đất tranh chấp từ năm 1972, đã đăng ký kê khai, được cấp Giấy chúng nhận đã đăng ký ruộng đất từ năm 1983 và có thực hiện nghĩa vụ thuế với nhà nước đến năm 2011. Đa số các chứng cứ ông M cung cấp đều là bản phô tô, không có công chứng, chứng thực. Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm, phía ông M cho rằng hiện nay ông M vẫn lưu giữ bản chính các chứng cứ là bản phô tô mà ông M đã nộp cho Tòa án cấp sơ thẩm. Do đó, việc phải thu thập bản chính hoặc bản sao (được công chứng, chứng thực hợp pháp) đối với các chứng cứ ông M đã nộp cho Tòa án cấp sơ thẩm để làm căn cứ giải quyết vụ án là rất cần thiết.

(v) Về phía gia đình bà Hồng, trong quá trình giải quyết vụ án, bà Hồng cũng cung cấp các Biên lai nộp thuế và cho rằng gia đình bà Hồng đã đóng thuế đối với diện tích đất tranh chấp từ năm 1995 đến nay. Mặt khác, theo Phiếu lấy ý kiến (bản phô tô) của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố M ngày 03/02/2017 phục vụ cho việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Vũ, ông Hoàn, bà Hồng có nội dung xác định diện tích đất tranh chấp do gia đình bà Hồng sử dụng ổn định từ năm 1996, nhưng như đã nhận định ở phần trên phía ông M cũng cung cấp chứng cứ là các biên lai đóng thuế quyền sử dụng đất và cho rằng biên lai này đóng thuế cho phần đất tranh chấp. Như vậy, các chứng cứ do các bên cung cấp mâu thuẫn với nhau về quá trình sử dụng đất tranh chấp, mâu thuẫn trong việc chứng minh cho việc đã nộp thuế sử dụng đất đối với khu đất tranh chấp nhưng Tòa án cấp sơ tẩm chưa làm rõ những mâu thuẫn này.

(vi) Mặt khác, theo Quyết định số 120/QĐ.UB ngày 10/10/1993 của UBND xã Phú Hòa nội dung ghi nhận bà K1 được sử dụng 2.500m2 đất, nhưng thực tế hiện nay gia đình ông M chỉ sử dụng có 1.946m2. Quyết định này cũng chưa bị hủy bỏ. Do đó, khi xem xét các quyết định hành chính giải quyết khiếu nại về tranh chấp khu đất nêu trên và khi xét xử vụ án thì cũng cần phải xem xét đến Quyết định số 120/QĐ.UB ngày 10/10/1993 của UBND xã Phú Hòa, đồng thời cần phải đưa UBND xã (nay là phường) Phú Hòa vào tham gia tố tụng thì mới đúng quy định của pháp luật.

(vii) Lẽ ra, khi giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm phải tiến hành thu thập thêm các chứng cứ nêu trên trong quá trình giải quyết khiếu nại và các chứng cứ liên quan khác theo quy định tại Điều 82 và Điều 84 Luật tố tụng hành chính; phải đánh giá chứng cứ một cách khách quan, toàn diện, đầy đủ, chính xác và phải đánh giá sự liên quan giữa các chứng cứ với nhau, để làm rõ được các mâu thuẫn như đã nhận định ở phần trên thì mới đủ cơ sở xác định các quyết định hành chính bị khởi kiện và các quyết định hành chính liên quan có được ban hành đúng quy định của pháp luật hay không, từ đó mới có cơ sở chấp nhận hoặc không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông M. Tuy nhiên, trong khi Tòa án cấp sơ thẩm chưa thu thập, xác minh làm rõ các chứng cứ này, nhưng đã tuyên bác yêu cầu khởi kiện của ông M là chưa đủ căn cứ vững chắc.

Bài viết liên quan

Góp ý