Quyết định giám đốc thẩm số 01/2024/KDTM-GĐT ngày 08/01/2024 của Tòa án nhân dân cấp cao Thành phố Hồ Chí Minh xét xử vụ án kinh doanh thương mại về “Tranh chấp hợp đồng tín dụng; hợp đồng thế chấp quyền phát sinh từ hợp đồng; hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”
Nội dung hủy án:
1. Việc Tòa án phúc thẩm nhận định, nguyên đơn và bị đơn ký kết 02 hợp đồng thế chấp để đảm bảo cho khoản vay 15/20 tỷ, mặc dù hợp đồng thế chấp chưa đăng ký giao dịch bảo đảm (vi phạm về hình thức) nhưng nguyên đơn đã thực hiện ít nhất 2/3 nghĩa vụ (VPBank đã giải ngân cho Công ty CTC số tiền vay 15 tỷ đồng theo hợp đồng tín dụng) nên áp dụng khoản 1 Điều 129 của Bộ luật Dân sự năm 2015, công nhận hiệu lực của hợp đồng thế chấp; nhận định như trên là nhầm lẫn, bởi vì không thể lấy nghĩa vụ của hợp này (hợp đồng tín dụng) thay cho nghĩa vụ của hợp đồng khác (hợp đồng thế chấp) để từ đó công nhận hợp đồng thế chấp có hiệu lực.
2. Tại phần quyết định của bản án, Tòa án phúc thẩm đã tuyên“phát mãi một phần khối tài sản của hộ ông T1 tương ứng 75% để thu hồi nợ, do các hợp đồng thế chấp quyền phát sinh từ hợp đồng số 0245/HĐTC/13 và số 0246/HĐTC/13 cùng ngày 31/12/2013 giữa các bên đương sự có liên quan đến hợp đồng tín dụng. Hộ ông Lê Văn T1 tiếp tục được quyền quản lý, sử dụng, định đoạt giá trị còn lại 25% quyền sử dụng và các tài sản trên đất”. Quyết định của Tòa án không kèm theo sơ đồ vị trí đất xác định 75% phần đất phát mãi và 25% phần đất giao cho hộ ông T1 được quản lý sử dụng nằm ở vị trí nào nên bản án không thể thi hành án được. Do đó, ngày 25/4/2023, Chi cục Thi hành án dân sự quận OM có văn bản số 119/CV-CCTHADS đề nghị xem xét giám đốc thẩm đối với bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm là có cơ sở.
3. Ngoài ra, việc Tòa phúc thẩm ghi nhận sự tự nguyện của hộ ông T1 về việc ưu tiên đưa tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất thửa 819 và thửa 821 tại khu vực TB, phường TA, quận OM và máy móc, thiết bị của gia đình ông T1 có trên các thửa đất 359, 360, 361, 362, 363, 364 và 782, tờ bản đồ số 4, phường CVL, quận OM để thực hiện phát mãi thu hồi nợ cho Ngân hàng; nhưng chưa làm rõ máy, móc, thiết bị trên các thửa đất nêu trên của cá nhân ông T3 lắp đặt sau này, hiện bao gồm những gì để trường hợp có ghi nhận thì tuyên rõ ràng trong phần quyết định hoặc phụ lục kèm theo bản án. Mặt khác, trong đơn đề nghị giám đốc thẩm, hộ ông T1 có khiếu nại, việc hộ ông đồng ý hỗ trợ như trên chỉ khi nào phía Công ty đồng ý tiếp nhận và phía Ngân hàng đồng ý hoàn trả lại toàn bộ tài sản, tuy nhiên Tòa án phúc thẩm lại ghi nhận sự tự nguyện trong khi hai chủ thể còn lại không thống nhất, là không đúng với thiện chí của hộ ông. Xét thấy, tại Biên bản phiên tòa phúc ngày 13/10/2020 (bút lục 685) thể hiện ông T3 (vừa là người đại diện theo ủy quyền) trình bày “Ngân hàng phải giao tài sản lại cho gia đình ông, khi nhận được tài sản sẽ bàn giao lại 02 tài sản cho Công ty”; còn về phía Ngân hàng không đồng ý. Khi Tòa án phúc thẩm chấp nhận yêu cầu của Ngân hàng, đã quyết định quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất của hộ ông là tài sản thế chấp và tuyên xử lý tài sản này để thanh toán nợ cho Ngân hàng nhưng lại còn tuyên thêm ghi nhận sự tự nguyện về nội dung trên là không thỏa đáng, trái với ý chí của đương sự.
4. Việc hộ ông T1 và Công ty CTC cùng thỏa thuận hủy bỏ các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên, giao lại quyền sử dụng đất cho hộ ông T1 quản lý là sau thời điểm thế chấp, trong khi hợp đồng thế chấp còn đang tồn tại, ảnh hưởng đến quyền lợi của VPBank. Tòa án sơ thẩm chấp nhận yêu cầu độc lập của hộ ông T1 về việc hủy bỏ hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nhưng không giải quyết hậu quả của việc hủy bỏ hợp đồng theo quy định tại khoản 3 Điều 425 Bộ luật Dân sự năm 2005; không xem xét đến nghĩa vụ của các bên khi hủy bỏ hợp đồng đối với VPBank là giải quyết vụ án chưa triệt để, chưa đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự.