TỘI GIẾT NGƯỜI

(Theo Điều 123 Bộ luật Hình sự năm 2015)

1. Giải thích từ ngữ

Giết người được hiểu là hành vi cố ý tước đoạt tính mạng của người khác một cách trái pháp luật, do người có năng lực trách nhiệm hình sự và từ đủ 14 tuổi trở lên thực hiện.

2. Tội danh

Điều 123. Tội giết người

1. Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình:

a) Giết 02 người trở lên;

b) Giết người dưới 16 tuổi;

c) Giết phụ nữ mà biết là có thai;

d) Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân;

đ) Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;

e) Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại thực hiện một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;

g) Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác;

h) Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân;

i) Thực hiện tội phạm một cách man rợ;

k) Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp;

l) Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người;

m) Thuê giết người hoặc giết người thuê;

n) Có tính chất côn đồ;

o) Có tổ chức;

p) Tái phạm nguy hiểm;

q) Vì động cơ đê hèn.

2. Phạm tội không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm.

3. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

4. Người phạm tội còn có thể bị cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm.”

3. Cấu thành tội phạm

3.1. Khách thể của tội phạm

Tội giết người xâm phạm quyền sống của con người. Đây là quyền tự nhiên, quyền cơ bản, thiêng liêng nhất và bất khả xâm phạm của con người.

Đối tượng tác động của tội phạm là con người đang sống và là cơ thể của người khác. Hành vi tự tước đoạt tính mạng của mình (tự sát) thì không phạm tội.

Bởi lẽ, con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Khi quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của con người bị xâm phạm thì mục tiêu phấn đấu của loài người sẽ trở nên vô nghĩa; động lực phát triển của xã hội sẽ bị triệt tiêu. Thêm vào đó, con người còn là chủ thể của quan hệ xã hội. Nếu quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của con người bị xâm phạm thì các quan hệ xã hội sẽ bị phá vỡ. Chính vì những lý do trên mà mục tiêu bảo vệ quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của con người luôn được đặt lên hàng đầu đối với mọi dân tộc, mọi quốc gia, mọi thời kỳ và mọi chế độ. Cũng vì ý nghĩa đặc biệt quan trọng của quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của con người mà trong các BLHS từ năm 1985 đến nay, ngay sau các tội xâm phạm an ninh quốc gia, nhà làm luật đều đã quy định Tội giết người.

3.2. Mặt khách quan của tội phạm

- Hành vi khách quan của tội giết người là hành vi tước bỏ tính mạng của người khác trái pháp luật. Hành vi tước bỏ tính mạng là hành vi có khả năng hiện thực gây ra cái chết cho người khác, chấm dứt sự sống của họ. Thông thường, hành vi tước đoạt tính mạng của người khác được thực hiện bằng hình thức hành động phạm tội như: bắn, chém, đâm, bóp cổ, đấm, đá, đầu độc,... có sử dụng công cụ, phương tiện phạm tội hoặc không.

Trong một số trường hợp, hành vi tước đoạt tính mạng của người khác có thể được thực hiện bằng hình thức không hành động phạm tội. Đó là trường hợp người phạm tội có nghĩa vụ phải hành động, phải làm những việc nhất định để đảm bảo sự sống, tính mạng của người khác, họ có khả năng thực hiện công việc đó nhưng họ đã không làm dẫn đến cái chết cho người khác.

Việc tước bỏ tính mạng của người khác đó phải trái pháp luật (việc giết người phải được thực hiện trong những trường hợp bị pháp luật cấm). Nếu hành vi cố ý tước bỏ tính mạng của người khác được thực hiện trong những trường hợp đặc biệt, pháp luật cho phép thì không bị coi là phạm tội (như thi hành án tử hình, phòng vệ chính đáng,...). Hành vi tước bỏ tính mạng của người khác trong trường hợp được sự đồng ý của nạn nhân cũng bị coi là trái pháp luật và phạm tội giết người.

Lưu ý: Hiện nay, trên thế giới, một số quốc gia hợp pháp hóa hành vi giết người theo yêu nhân trong trường hợp bị bệnh hiểm nghèo (thường được gọi là “cái chết nhân đạo”, “cái chết êm ái” - “euthanasia” (Tiếng Anh)) - thì không bị coi là phạm tội giết người. Khi hợp pháp hóa “cái chết nhân đạo” các quốc gia sẽ quy định trình tự, điều kiện, thủ tục để tiến hành hoạt động này. Ở Việt Nam chưa chấp nhận hành vi này nên vấn bị coi là phạm tội giết người.

- Hậu quả của tội phạm giết người là cái chết của nạn nhân. Tội giết người có cấu thành tội phạm vạt chất nên dấu hiệu hậu quả là dấu hiệu định tội. Tuy nhiên, tùy thuộc vào hình thức lỗi của người phạm tội mà dấu hiệu hậu quả có ý nghĩa khác nhau:

+ Nếu người phạm tội có lỗi cố ý gián tiếp thì chỉ khi nào hậu quả chết người xảy ra trên thực tế và có mối quan hệ nhân quả với hành vi phạm tội thì mới cấu thành tội giết người. Nếu hậu quả chế người không xảy ra, có thể phạm tội cố ý gây thương tích hoặc không phạm tội.

+ Nếu người phạm tội có lỗi cố ý trực tiếp thì dấu hiệu hậu quả chết người có ý nghĩa trong việc xác định giai đoạn phạm tội. Nếu hậu quả chết người xảy ra và có mối quan hệ nhân quả với hành vi phạm tội thì tội phạm hoàn thành; nếu hậu quả chết người chưa xảy ra thì phạm tội chưa đạt hoặc chuẩn bị phạm tội.

3.3. Mặt chủ quan của tội phạm

- Người phạm tội có lỗi cố ý (có thể là lỗi cố ý trực tiếp hoặc lỗi cố ý gián tiếp). Nếu người phạm tội nhận thức được hậu quả chết người tất yếu sẽ xảy ra thì dù họ không mong muốn cho hậu quả xảy ra cũng bị coi là có lỗi cố ý trực tiếp.

- Động cơ và mục đích phạm tội không phải là dấu hiệu định tội của tội giết người. Tuy nhiên, nếu người cố ý tước đoạt tính mạng của người khác có mục đích nhằm gây ra tình trạng hoảng sợ trong công chúng hoặc chống chính quyền nhân dân thì không phạm tội giết người mà phạm tội khủng bố (Điều 299 BLHS năm 2015) hoặc khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân (Điều 113 BLHS năm 2015).

3.4. Chủ thể của tội phạm

Chủ thể của tội giết người là người từ đủ 14 tuổi trở lên, có năng lực trách nhiệm hình sự. Chủ thể của tội phạm nói chung và Tội giết người nói riêng là con người có đủ điều kiện để có lỗi khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Người có đủ điều kiện để có lỗi, để trở thành chủ thể của tội phạm phải là người có năng lực trách nhiệm hình sự - năng lực nhận thức được ý nghĩa xã hội của hành vi và năng lực điều khiển hành vi theo đòi hỏi tất yếu của xã hội. Để có được năng lực này con người phải đạt độ tuổi nhất định.

- Theo quy định tại Điều 21 BLHS năm 2015 thì tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự là tình trạng của người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình. Quy định này cho thấy, một người được coi là trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự khi thoả mãn hai dấu hiệu: Dấu hiệu y học, mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm rối loạn hoạt động thần kinh và dấu hiệu tâm lý, mất năng lực nhận thức hoặc năng lực điều khiển hành vi. Người mắc bệnh trong trường hợp này: 

+ Hoặc không còn năng lực hiểu biết những đòi hỏi của xã hội, không còn năng lực đánh giá hành vi đã thực hiện đúng hay sai, được làm hay không được làm... Vì vậy, họ cũng không còn năng lực kiềm chế việc thực hiện hành vi nguy hiểm để thực hiện xử sự khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội; hoặc 

+ Tuy có năng lực nhận thức và năng lực đánh giá tính chất xã hội của hành vi nguy hiểm, nhưng do các xung động bệnh lý khiến họ không thể kiềm chế được hành vi của mình. Quy định trên cho thấy, người nào tuy mắc bệnh tâm thần, nhưng không mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi thì không được coi là trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự. Đây thực chất là trường hợp năng lực trách nhiệm hình sự hạn chế - một tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm l khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015. 

- Theo quy định tại khoản 1 Điều 9, khoản 2 Điều 12 và Điều 123 BLHS năm 2015 thì chủ thể của Tội giết người là người từ đủ 14 tuổi trở lên. Quy định này dựa trên cơ sở nghiên cứu tâm sinh lý con người Việt Nam, truyền thống lập pháp và chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Trân trọng./.

Góp ý