TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI

(Theo Điều 229 Bộ luật Hình sự năm 2015)

1. Giải thích từ ngữ

Vi phạm các quy định về quản lý đất đai được hiểu là hành vi vi phạm pháp luật liên quan đến việc quản lý, sử dụng, phân bổ, hoặc cấp phép sử dụng đất đai không đúng quy định của pháp luật thường liên quan đến các hành vi lạm dụng quyền lực, thiếu trách nhiệm, hoặc cố ý làm trái quy định về quản lý đất đai, gây hậu quả nghiêm trọng cho Nhà nước và xã hội.

2. Tội danh

“Điều 229. Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai

1. Người nào lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển quyền sử dụng, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trái quy định của pháp luật thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Đất trồng lúa có diện tích từ 5.000 mét vuông (m2) đến dưới 30.000 mét vuông (m2); đất rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất có diện tích từ 10.000 mét vuông (m2) đến dưới 50.000 mét vuông (m2); đất nông nghiệp khác và đất phi nông nghiệp có diện tích từ 10.000 mét vuông (m2) đến dưới 40.000 mét vuông (m2);

b) Đất có giá trị quyền sử dụng đất được quy thành tiền từ 500.000.000 đồng đến dưới 2.000.000.000 đồng đối với đất nông nghiệp hoặc từ 1.000.000.000 đồng đến dưới 5.000.000.000 đồng đối với đất phi nông nghiệp;

c) Đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

a) Có tổ chức;

b) Đất trồng lúa có diện tích từ 30.000 mét vuông (m2) đến dưới 70.000 mét vuông (m2); đất rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất có diện tích từ 50.000 mét vuông (m2) đến dưới 100.000 mét vuông (m2); đất nông nghiệp khác và đất phi nông nghiệp có diện tích từ 40.000 mét vuông (m2) đến dưới 80.000 mét vuông (m2);

c) Đất có giá trị quyền sử dụng đất được quy thành tiền từ 2.000.000.000 đồng đến dưới 7.000.000.000 đồng đối với đất nông nghiệp hoặc từ 5.000.000.000 đồng đến dưới 15.000.000.000 đồng đối với đất phi nông nghiệp;

d) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm:

a) Đất trồng lúa có diện tích 70.000 mét vuông (m2) trở lên; đất rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất có diện tích 100.000 mét vuông (m2) trở lên; đất nông nghiệp khác và đất phi nông nghiệp có diện tích 80.000 mét vuông (m2) trở lên;

b) Đất có giá trị quyền sử dụng đất được quy thành tiền 7.000.000.000 đồng trở lên đối với đất nông nghiệp hoặc 15.000.000.000 đồng trở lên đối với đất phi nông nghiệp.

4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 150.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”

3. Cấu thành tội phạm

3.1. Khách thể của tội phạm

Khách thể của Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai là quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ liên quan đến quản lý, sử dụng đất đai. Tội phạm này xâm phạm trực tiếp đến: trật tự quản lý đất đai của Nhà nước và quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức, cá nhân.

3.2. Mặt khách quan của tội phạm

Người phạm tội có hành vi lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý đất đai như: giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển quyền sử dụng, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trái quy định của pháp luật đất đai.

- Lạm dụng quyền hạn: Người có trách nhiệm quản lý đất đai lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để thực hiện các hành vi trái quy định pháp luật như phân bổ đất sai đối tượng, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không đúng thẩm quyền.

- Thiếu trách nhiệm trong quản lý: Người quản lý đất đai không thực hiện đúng trách nhiệm của mình, dẫn đến tình trạng đất đai bị sử dụng sai mục đích, không đúng quy hoạch, hoặc gây ra tranh chấp đất đai.

- Làm trái quy định pháp luật: Thực hiện các hành vi như cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho đối tượng không đủ điều kiện, hoặc chuyển đổi mục đích sử dụng đất không tuân thủ quy định.

Người có hành vi phạm tội nêu trên chỉ bị coi là tội phạm khi thuộc một trong các trường hợp:

- Đất trồng lúa có diện tích từ 5.000 mét vuông (m²) trở lên; đất rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất có diện tích từ 10.000 mét vuông (m²) trở lên; đất nông nghiệp khác và đất phi nông nghiệp có diện tích từ 10.000 mét vuông (m²) trở lên;

- Đất có giá trị quyền sử dụng đất được quy thành tiền từ 500.000.000 đồng trở lên đối với đất nông nghiệp hoặc từ 1.000.000.000 đồng trở lên đối với đất phi nông nghiệp;

- Đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm.

Hậu quả:

- Hậu quả vật chất: Gây thất thoát tài sản Nhà nước, làm thiệt hại lớn về kinh tế cho các cá nhân, tổ chức có liên quan.

- Hậu quả môi trường: Gây suy thoái tài nguyên đất, làm thay đổi cảnh quan tự nhiên, và gây ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường.

- Hậu quả xã hội: Gây mất ổn định trật tự xã hội, dẫn đến tranh chấp đất đai, khiếu kiện kéo dài và làm suy giảm niềm tin của người dân vào hệ thống quản lý đất đai.

3.3. Mặt chủ quan của tội phạm

Tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý. Động cơ và mục đích không phải là dấu hiệu bắt buộc để định tội.

3.4. Chủ thể của tội phạm

Chủ thể của tội phạm này có thể là bất kỳ người nào từ đủ 16 tuổi trở lên theo Điều 12 Bộ luật Hình sự và có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự theo Điều 21 Bộ luật Hình sự.

Ngoài ra, người phạm tội còn cần có dấu hiệu là người có chức vụ, quyền hạn trong quản lý đất đai Nhà nước.

Trân trọng./.

Góp ý