1. Giải thích từ ngữ
Vi phạm chế độ một vợ, một chồng được hiểu là hành vi của người đang có vợ, có chồng mà kết hồn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sổng như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ.
2. Tội danh
“Điều 182. Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng
1. Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:
a) Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn;
b) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát;
b) Đã có quyết định của Tòa án hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó.”
3. Cấu thành tội phạm
3.1. Khách thể của tội phạm
Khách thể của tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng chính là chế độ một vợ, một chồng, là một trong những nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình mà Luật hôn nhân và gia đình quy định; bảo vệ chế độ một vợ, một chồng khỏi bị xâm hại cũng chính là giữ vững nguyên tắc của chế độ hôn nhân và gia đình.
3.2. Mặt khách quan của tội phạm
Đối với tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng thì người phạm tội thực hiện một trong các hành vi sau đây:
– Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ.
+ Trong đó, theo khoản 5 Điều 3 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình về điều kiện kết hôn (Điều 8) và đăng ký kết hôn (Điều 9).
+ Mặt khác nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình quy định tại khoản 1 Điều 2 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 nêu rõ: “Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng.”
– Người nào đang có vợ, có chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ.
Trong đó, Chung sống như vợ chồng là việc nam, nữ tổ chức cuộc sống chung coi nhau là vợ chồng (khoản 7 Điều 3 Luật hôn nhân và gia đình).
Hậu quả: Việc thực hiện hành vi nêu trên sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi có hậu quả xảy ra, đó là:
+ Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn;
+ Hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm;
+ Hoặc làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát;
+ Hoặc đã có quyết định của Tòa án hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó.
Trong thực tiễn xét xử, việc xử lí về hình sự đối với người vi phạm chế độ một vợ, một chồng chủ yếu được áp dụng đối với nam giới, trước hết là những trường hợp có thủ đoạn gian dối kèm theo như giả mạo giấy tờ để lẩy nhiều vợ. Ngoài ra, việc xử lí về hình sự cũng được áp dụng với những người ác ý “cướp chồng”, phá hoại hạnh phúc gia đình người khác hoặc trong trường hợp cố tình bất chấp pháp luật.
3.3. Mặt chủ quan của tội phạm
Đối với tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng là việc thực hiện hành vi với lỗi cố ý gián tiếp:
- Về ý chí: người phạm tội nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật và thấy trước được hậu quả có thể xảy ra.
- Về lý trí: mong muốn thực hiện hành vi kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng và để mặc cho hậu quả xảy ra.
3.4. Chủ thể của tội phạm
Là người có năng lực chịu trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo pháp luật quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Có thể thấy, đối với hành vi kết hôn thì không cần xác định độ tuổi cụ thể vì bản thân nếu kết hôn thỏa mãn điều kiện để kết hôn thì đã bao gồm cả độ tuổi đủ để chịu trách nhiệm hình sự về tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng. Còn trường hợp chung sống như vợ chồng của người chưa có vợ, có chồng thì người từ đủ 16 tuổi trở lên cũng có thể phải chịu trách nhiện hình sự về tội phạm này.
Trân trọng./.