Nội dung hủy án:
(i) Do vụ án có nhiều mâu thuẩn, nhiều vấn đề cần được làm rỏ, lẽ ra cấp sơ thẩm cần phải xác minh, thu thập chứng cứ để làm sáng tỏ nội dung vụ án như:
- Phải cho các bên tiến hành đối chất, làm rõ giữa số tiền chuyển khoản và số tiền ghi trong sổ theo từng lần giao nhận tiền, để từ đó xác định số tiền chênh lệch, nguyên nhân chênh lệch, số lượng hàng hóa bà X đã giao cho ông S, hình thức giao nhận hàng, yêu cầu ông S phải đến ngân hàng sao kê số tiền đã chuyển trả cho bà X.
Nhưng cấp sơ thẩm chỉ căn cứ vào sổ sách do nguyên đơn cung cấp có chữ ký của bà X xác nhận, cũng như lời trình bày của người đại diện theo ủy quyền của ông S cho rằng tiền được chuyển vào tài khoản bà X như thế nào thì tùy bà, nguyên đơn không biết, để từ đó chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bà X phải trả lại số tiền 11.148.985.000đ là chưa có cơ sở vững chắc.
(ii) Về tố tụng: Trong những lần chuyển tiền trong đó có thể hiện ông D giám đốc C.ty TNHH Thanh Bích, bà Chi chuyển tiền cho bà X, nhưng trong sao kê có sự chênh lệch, hoặc không có chuyển, không được bà X thừa nhận. Mặc khác, tại phiên tòa phúc thẩm bà X có kê khai tất cả các quá trình hoạt động mua bán hàng hóa, thì thấy do Công ty của bà mới thành lập chưa có tiếng tâm trên thị trường nên tất cả các hoạt động mua bán hàng hóa của Công ty đều thông qua Công ty TNHH Thanh Bích do ông Trần Thanh D làm chủ, khi ông S có đối tác mua hàng (lúa gạo, lúa nếp, tấm) thì ông S liên hệ bà X, ông D để ông D trực tiếp ký hợp đồng với đối tác, bà X là người cung cấp hàng hóa cho ông D, khi ông D xuất hóa đơn cho đối tác thì giao hóa đơn còn lưu lại cho bà, để bà quyết toán với ông S.
Mặc khác tại phiên tòa phúc thẩm người đại diện theo ủy quyền của ông S cũng đã xác định ông S không có thành lập công ty, không có tư cách pháp nhân, khi đặt hàng mua lúa gạo của bà X thì phải thông qua nhiều công ty đối tác khác, nhưng do bí mật kinh doanh nên ông không cung cấp thông tin những công ty này. Lời khai này hoàn toàn phù hợp với lời khai của bà X và những chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.
Như vậy việc mua bán này, cũng như việc thanh toán tiền hàng còn có liên quan đến Công ty TNHH Thanh Bích do ông D làm đại diện, bà Chi nhưng cấp sơ thẩm không đưa ông D, Công ty TNHH Thanh Bích, bà Chi tham gia vào vụ án với tư cách người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan để xác định mối quan hệ như thế nào với ông S, nguồn tiền chuyển từ đâu, hình thức mua bán hàng hóa giữa ông S, bà X, Công ty TNHH Thanh Bích, đối chất việc chuyển tiền của ông D, bà Chi với bà X, là vi phạm nghiêm trọng tố tụng, làm ảnh hưởng quyền và lợi ích của các bên.
Từ những nhận định trên cho thấy Tòa án cấp sơ thẩm đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng từ khi giai đoạn giải quyết vụ án, đến khi đưa vụ án ra xét xử, thu thập chứng cứ chưa đầy đủ, từ đó dẫn đến nội dung giải quyết vụ án bị ảnh hưởng, cấp phúc thẩm không thể khắc phục được, nên yêu cầu kháng cáo của Bà X là có cơ sở để Hội đồng xét xử chấp nhận, do đó cần hủy toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm số số 15/2021/DS-ST ngày 04 tháng 02 năm 2021 của Toà án nhân dân huyện PT theo như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, cũng như phát biểu của luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn là có căn cứ.