Bản án dân sự phúc thẩm số 32/2023/DS-PT ngày 07/3/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh BN về tranh chấp hợp đồng đặt cọc

30/09/2024
Luật Nghinh Phong
185
0

Nội dung hủy án 

(i) Bản án sơ thẩm xác định Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông L với anh T chị L2 vô hiệu do giả tạo nhằm che giấu một giao dịch khác giữa anh H và ông L. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 131 Bộ luật dân sự thì hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu:... “Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả”. Như vậy, yêu cầu của anh T, chị L2 đề nghị giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu, buộc ông H phải trả cho ông L số tiền vay 2 tỷ đồng thì đây không phải là hậu quả pháp lý của giao dịch đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu. Bản án sơ thẩm xác định hợp đồng bị che giấu là hợp đồng vay tiền và xem xét giải quyết đối với hợp đồng vay tiền giữa ông H và ông L theo yêu cầu của anh T, chị L2. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm không thụ lý đối với tranh chấp hợp đồng vay số tiền 02 tỷ đồng giữa ông Khổng Minh H với ông Nguyễn Văn L nhưng vẫn xem xét, giải quyết và buộc ông H phải trả ông Nguyễn Văn L và bà Trương Thị Phi số tiền 2 tỷ đồng là vượt quá phạm vi khởi kiện, vi phạm quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục thụ lý giải quyết vụ án.

(ii) Thứ hai, trong quá trình giải quyết vụ án ông Khổng Minh H và anh Khổng Văn T, chị Trần Thị L2 cho rằng ông L không giao số tiền 2 tỷ đồng cho anh T, chị L2 mà ông H là người nhận số tiền này từ cháu ông L. Tuy nhiên, các đương sự không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh việc ông H nhận số tiền trên của ông L. Bản án sơ thẩm chỉ căn cứ vào lời trình bày của ông H và vợ chồng anh T, chị L2 và giấy mượn sổ đất ở giữa vợ chồng anh T, chị L2 với ông H, bà H2 ngày 15/10/2019 (sau ngày ký hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất của anh T, chị L2 với ông L) và nhận định ông H là người đã nhận số tiền 2 tỷ đồng từ ông L nên tuyên buộc ông H phải trả ông L số tiền trên là chưa đủ căn cứ vững chắc.

(iii) Thứ ba, trong vụ án này ông L khởi kiện yêu cầu anh T và chị L2 phải trả ông L số tiền đặt cọc là 02 tỷ đồng và tiền phạt vi phạm hợp đồng là 02 tỷ đồng, tổng cộng là 4 tỷ đồng và yêu cầu hủy hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 14/10/2019 giữa ông L và anh T, chị L2. Tòa án đã thụ lý, giải quyết đối với yêu cầu này là có căn cứ. Tuy nhiên, bản án nhận định không có căn cứ chấp nhận yêu cầu của ông L đối với khoản tiền 4 tỷ đồng nhưng trong phần quyết định của bản án không tuyên bác yêu cầu khởi kiện của ông L đối với ông anh T, chị L2; đồng thời tuyên hủy hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 14/10/2019 giữa ông L và anh Khổng Văn T, chị Trần Thị L2 là vi phạm quy định tại Điều 266 Bộ luật Tố tụng dân sự.

(iv) Phần nhận định và quyết định của bản án có mâu thuẫn với nhau, dẫn đến việc buộc đương sự phải chịu án phí không đúng quy định tại Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và Nghị quyết số 326/NQ-UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí. Ông L khởi kiện yêu cầu tuyên hủy bỏ hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất; còn phía bị đơn là anh T, chị L2 có yêu cầu phản tố đề nghị tuyên hợp đồng đặt cọc vô hiệu. Bản án sơ thẩm nhận định không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn nhưng lại tuyên hủy hợp đồng đặt cọc và xử chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn tuyên hợp đồng đặt cọc vô hiệu là không đúng quy định của pháp luật. Trong phần quyết định của bản án tuyên ông L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu không được chấp nhận là không chính xác, ảnh hưởng đến quyền và L ích của các đương sự. Do vậy, quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện YP là có căn cứ chấp nhận.

Bài viết liên quan

Góp ý