Bản án dân sự phúc thẩm số 429/2018/DS-PT ngày 02/5/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về việc tranh chấp về quyền sử dụng đất và quyền sở hữu tài sản

26/07/2024
Luật Nghinh Phong
244
0

Nội dung hủy án:   

1. Phần diện tích còn lại 589,5m2 chưa được cấp giấy chứng quyền sử dụng đất. Thực tế do gia đình bà T đang sử dụng, quá trình ở vợ chồng bà T có cất thêm nhà tôn để sử dụng từ năm 1998 đến nay và trồng cây. Nguồn gốc đất trước đây thuộc nông trường A, quá trình giải quyết cấp sơ thẩm không thu thập chứng cứ xác minh làm rõ nguồn gốc đất hiện nay nông trường có quản lý hay không? Bà Nguyễn Thị L cho rằng đã mua của bà Kiều Thị P từ năm 1992 nhưng không sử dụng, có kê khai đóng thuế hay không? Tại sao Ủy ban nhân dân huyện B chỉ cấp giấy chứng nhận diện tích đất 300m2, diện tích nhà 65,8m2 mang số 6A55/1 ấp 6, xã PVH, diện tích còn lại 589,5m2 lý do không cấp giấy chứng nhận. Theo Công văn số 1211/VPĐK-CNBC ngày 26 tháng 02 năm 2016 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện B, thì hồ sơ cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 40/2007/UB-GCN ngày 21/6/2007 do Ủy ban nhân dân huyện B cấp chưa được chuyển về kho lưu trữ. Do đó, Ủy ban nhân dân huyện B không có cơ sở thẩm tra trình tự thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở.

2. Bà L cho rằng cho gia đình bà T và ông N ở nhờ từ năm 2005 theo giấy cam kết ngày 24/9/2005 (bản pho to) nhưng không cung cấp được bản chính. Trong khi đó, bà T và ông N xác định vào ở từ năm 1998, khi đó là trạm xá của nông Trường A. Những nội dung này cần được xác minh làm rõ mới đủ căn cứ chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

3. Theo đơn kiện bà L yêu cầu bà Cao Thị T và ông Nguyễn Văn N tháo dỡ hai căn nhà tôn có diện tích 12,9m2 và căn nhà diện tích là 16,8m2 xây dựng trái phép trên đất. Tại phiên toà, bà L rút yêu cầu này nhưng cấp sơ thẩm không đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu này.

Bài viết liên quan

Góp ý