Bản án dân sự phúc thẩm số 480/2023/DS-PT ngày 27/9/2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội về tranh chấp chia thừa kế

Nội dung hủy án 

(i) Đối với kháng nghị về việc Tòa án cấp sơ thẩm đã vi phạm tố tụng do không thực hiện việc định giá các tài sản do anh T xây dựng từ năm 2016, Hội đồng xét xử thấy: Sau khi thụ lý lại vụ án để giải quyết theo thủ tục sơ thẩm, Tòa án cấp sơ thẩm đã tiến hành xem xét, thẩm định lại tài sản tranh chấp và xác định năm 2016, anh T có xây dựng thêm các công trình: “1. Tại lối vào, anh T xây thêm tầng 2 (trước là nhà tầng 1) diện tích 40m2, lợp mái tôn; 2. Tại ngôi nhà 2 tầng có sửa chữa xây thêm 1 phần tầng 2 của ngôi nhà này, xây gạch, lợp tôn chống nóng, có hàng hiên lát gạch đỏ, mái kèo sắt không gỉ, diện tích khoảng 30m2 và cầu thang bằng inox; 3. 1 nhà tạm vật liệu xây dựng bằng tre nứa, lợp mái lá cọ, sân lát đá đen, diện tích 2m05x5m60”. Tuy quá trình giải quyết vụ án, bản thân anh T và các đương sự đều không đề nghị định giá các công trình xây dựng năm 2016 của anh T. Mặc dù những tài sản này đều được anh T xây dựng khi đang xảy ra tranh chấp và không được sự đồng ý của các đồng thừa kế khác là không đúng quy định của pháp luật. Tòa án cấp sơ thẩm đã tiến hành xem xét thẩm định nhưng quyết định không thực hiện việc định giá tài sản và nhận định trong trường hợp chia bằng hiện vật cho các thừa kế khác xâm phạm đến các công trình này thì anh T phải tháo dỡ để trả lại diện tích đất được chia cho các đồng thừa kế khác là chưa đảm bảo, bởi các công trình trên có công trình được xây dựng kiên cố, việc tháo dỡ có thể ảnh hưởng đến kết cấu công trình và gây lãng phí. Do đó, cần tiến hành định giá để xác định giá trị của các công trình xây dựng thêm, khi chia di sản thừa kế trong trường hợp phần công trình xây dựng trên đất thừa kế (có công trình xây dựng thêm) được giao cho người được hưởng di sản thừa kế bằng hiện vật thì giao cho họ tiếp tục sử dụng, xem xét lỗi của người xây dựng công trình và quyết định trách nhiệm của người được hưởng di sản đối với phần xây dựng thêm này. Do đó, kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố H8 về nội dung này có căn cứ chấp nhận.

(ii) Xác định hàng thừa kế của cụ Doãn H7 và cụ Hoàng Thị Đ: Theo lời khai thống nhất của các đương sự thì cụ Doãn H7 và cụ Hoàng Thị Đ sinh được 07 người con chung gồm: ông Doãn Quốc S, sinh năm 1923; bà Doãn Thị C, sinh năm 1929; ông Doãn N, sinh năm 1933; bà Doãn Thị Q1, sinh năm 1938; ông Doãn Ngọc H, sinh năm 1941; bà Doãn Thị M6, sinh năm 1944; ông Doãn Quốc B, sinh năm 1947. Ông Doãn Ngọc H chết năm 2020, những người kế thừa quyền nghĩa vụ tố tụng của ông H gồm: anh Doãn Quốc T, sinh năm 1970; chị Doãn Mai H1, sinh năm 1973; anh Doãn Quốc Tr, sinh năm 1985. Bà Doãn Thị C chết năm 2019, những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bà C gồm: ông Đoàn Văn M3, sinh năm 1956; bà Đoàn Thị Như M, sinh năm 1958; bà Đoàn Doãn Thị Bích Vân, sinh năm 1960; ông Đoàn Quang M1, sinh năm 1961; ôngĐoàn Đức M2, sinh năm 1963. Ông Đoàn Văn M3 chết năm 2010, những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông M3 gồm: bà Phạm Thanh H2, sinh năm 1957; chị Đoàn Thị P, sinh năm 1989; anh Đoàn Minh K, sinh năm 1992.

Ngoài ra, các ông, Bá, ông N, bà C, bà M6 (các bút lục 239-240, 211, 70- 71, 67) đều thống nhất thừa nhận năm 1940 cụ H7, cụ Đ có nhận bà Nguyễn Thị Đ1 về nuôi nhưng không làm thủ tục đăng ký nhận con nuôi; trong suốt thời gian từ những năm 1940 đến khi cụ H7 chết (năm 1975) và cụ Đ chết (năm 1986) bà Đ1 đã có nhiều đóng góp trong việc chăm sóc, phụng dưỡng cũng như phục vụ quá trình làm ăn của các cụ. Mặc dù bà Đ1 không xuất trình được giấy tờ về việc được cụ H7, cụ Đ nhận nuôi, nhưng căn cứ lời khai của các con của cụ H7, cụ Đ và thực tế bà Đ1 đã ở tại nhà cụ H7, cụ Đ từ khi về ở cho đến khi bà Đ1 chết. Hội đồng xét xử thấy: khi còn sống cụ H7, cụ Đ đã nhận bà Đ1 về nuôi từ năm 13 tuổi cho đến khi bà Đ1 trưởng thành, kết hôn; sau khi bà Đ1 kết hôn vẫn tiếp tục ở cùng chăm sóc, phụng dưỡng cụ H7, cụ Đ. Mặc dù việc cụ H7, cụ Đ nhận nuôi bà Nguyễn Thị Đ1 không được lập thành văn bản, cũng không làm thủ tục nhận nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, căn cứ Điều 50 Luật nuôi con nuôi, Điều 23 Nghị định 19/2011/NĐ-CP ngày 21/3/2011 của Chính phủ về đăng ký việc nuôi con nuôi thực tế; Thông tư số 81/TANDTC ngày 24/07/1981 của Tòa án nhân dân tối cao và Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP ngày 20/01/1988 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì việc nhận con nuôi của cụ Đ, cụ H7 không trái pháp luật, không vi phạm đạo đức và trên thực tế, quan hệ giữa cha mẹ nuôi là cụ H7, cụ Đ và con nuôi là bà Đ1 đã được xác lập, các bên đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình; việc nhận nuôi bà Đ1 của cụ Đ, cụ H7 đã được tất cả các con của cụ Đ, cụ H7 công nhận. Do đó, có cơ sở xác định bà Nguyễn Thị Đ1 là con nuôi thực tế của cụ Doãn H7 và cụ Hoàng Thị Đ.

Tòa án cấp sơ thẩm nhận định trong hồ sơ vụ án không có tài liệu chứng minh có việc nuôi dưỡng giữa cụ Đ, cụ H7 với bà Đ1 theo quy định pháp luật để xác định bà Đ1 không phải con nuôi của cụ H7, cụ Đ là không phản ánh đúng với thực tế khách quan của vụ án và không vận dụng đúng tinh thần của pháp luật về việc bảo vệ quan hệ nuôi con nuôi thực tế làm ảnh hưởng quyền lợi của người được nhận nuôi thực tế là bà Nguyễn Thị Đ1 theo quy định pháp luật.

(iii) Xét yêu cầu chia thừa kế di sản của cụ Doãn H7 và cụ Hoàng Thị Đ, Hội đồng xét xử thấy: Hồ sơ vụ án thể hiện cụ H7 chết không để lại di chúc, cụ Đ chết có để lại 02 di chúc lập ngày 24/7/1978 và ngày 16/01/1983.

Đối với di chúc ngày 16/01/1983 do bị đơn xuất trình: Quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đều không thừa nhận việc cụ Đ để lại di chúc ngày 16/01/1983. Tòa án cấp sơ thẩm thực hiện trưng cầu giám định chữ ký dạng chữ viết “Đức” trong bản di chúc ngày 18/01/1983 với dạng chữ viết tại di chúc ngày 24/7/1978; tại kết luận giám định khẳng định không phải chữ ký của cụ Đ trong bản di chúc ngày 16/01/1983. Tòa án cấp sơ thẩm tiếp tục trưng cầu giám định chữ ký dạng chữ viết “Đức” tại dòng cuối bản di chúc ghi ngày 3 tháng 12 Nhâm Tuất tức (ngày 16/01/1983) với chữ ký dạng chữ viết “Đức” dưới dòng chữ “Hà Nội ngày 18/01/1983”, tại kết luận giám định số 2898 ngày 20/12/2010 của Viện Khoa học hình sự kết luận là do cùng một người viết ra. Như vậy, thì các di chúc ngày 16/01/1983 và ngày 18/01/1983 do bị đơn xuất trình là không hợp pháp.

Đối với di chúc ngày 24/7/1978: Tòa án cấp sơ thẩm nhận định chỉ liên quan đến ngôi nhà 107 Y là không đúng với tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Cụ thể tại Di chúc ngày 24/7/1978 (bút lục số 252-253) có nội dung: “…Dinh cơ ở xóm Tre, xã Yên Hòa, Từ Liêm, Hà Nội giao quyền thừa kế cho các con trai Doãn Quốc S, Doãn N, Doãn H, Doãn Quốc B trong đó con Doãn N chịu trách nhiệm quản lý chính các con gái Doãn Thị C, Doãn Thị Q1, Doãn Mỹ và cháu dâu Nguyễn Thị Đ1 có quyền được ở khi cần thiết nhưng không được đòi chia đất ở riêng hoặc để bán cho người ngoài…”. Hồ sơ vụ án thể hiện các đương sự đều thừa nhận cụ Đ có viết di chúc ngày 24/7/1978 nêu trên (bút lục 350-352). Tòa án cấp sơ thẩm không làm rõ tính hợp pháp của di chúc ngày 24/7/1978 của cụ Đ để làm căn cứ giải quyết vụ án là không đúng quy định tại Điều 650 Bộ luật Dân sự, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự.

(iv) Mặt khác, hồ sơ vụ án thể hiện ngày 05/12/2005, ông Doãn Quốc S, bà Doãn Thị Q1 mặc dù cư trú tại Mỹ nhưng đã tiến hành lập Văn bản nhường quyền thừa kế tại phòng 304 - B8 tập thể O7, phố O8, quận Z5, thành phố H8, có chứng nhận của ông Nguyễn Quang P1 công chứng viên Phòng Công chứng số 3 thành phố H8 (bút lục số 536-537, 294-295). Tòa án cấp sơ thẩm đã không thực hiện các biện pháp tố tụng để xác định tính hợp pháp của Văn bản nhường quyền thừa kế ngày 05/12/2005 để làm căn cứ giải quyết vụ án, cụ thể như: Không thực hiện việc xác minh có hay không sự việc ông S, bà Q1 lập Văn bản nhường quyền thừa kế ngày 05/12/2005 nêu trên; không lấy ý kiến của các đương sự cũng như trích xuất từ Cục xuất nhập cảnh về thời gian ngày 05/12/2005 ông S, bà Q1 có nhập cảnh về Việt Nam hay không? Không tiến hành xác minh tại Văn phòng công chứng số 3 thành phố H8 liên quan đến hành vi chứng nhận tại Văn bản nhường quyền thừa kế ngày 05/12/2005 nêu trên của ông S, bà Q1. Tòa án cấp sơ thẩm không đánh giá toàn diện các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án và nhận định cho rằng Tòa án đã thực hiện việc ủy thác tư pháp để xác định địa chỉ và nguyện vọng của ông S, bà Q1 nhưng không có kết quả, áp dụng Án lệ số 06/2016 để giải quyết vụ án là chưa đủ căn cứ. Bởi lẽ, theo nội dung Án lệ số 06/2016 thể hiện quá trình giải quyết vụ án đã thực hiện việc ủy thác tư pháp, thu thập chứng cứ theo đúng quy định của pháp luật nhưng vẫn không xác định được địa chỉ và không thu thập được ý kiến của đương sự ở nước ngoài thì Tòa án xem xét giải quyết yêu cầu của nguyên đơn vắng mặt các đương sự ở nước ngoài. Trong vụ án này, ông B đã cung cấp được địa chỉ của ông S, bà Q1 tại Mỹ và cung cấp được tài liệu thể hiện ý kiến, quan điểm của ông S, bà Q1 gửi cho Tòa án cũng như gửi cho các đương sự; các đương sự cũng cung cấp các văn bản trình bày quan điểm của ông S, bà Q1. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm không đánh giá tính hợp pháp của tài liệu, chứng cứ do các đương sự cung cấp cũng như không làm rõ tính hợp pháp của các tài liệu, chứng cứ này để làm căn cứ giải quyết vụ án. Hơn nữa, trong quá trình giải quyết vụ án, ông B đều yêu cầu được xác lập quyền được hưởng kỷ phần thừa kế của ông S, bà Q1 theo Văn bản nhường quyền thừa kế ngày 05/12/2005. Trường hợp Văn bản nhường quyền thừa kế ngày 05/12/2005 của ông S, bà Q1 là hợp pháp thì việc áp dụng Án lệ số 06/2016 của Tòa án cấp sơ thẩm là không đúng, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đồng thừa kế khác.

(v) Ngoài ra diện tích đất di sản rộng, tuy trên đất có nhiều công trình xây dựng nhưng có công trình xây dựng năm 1933, có công trình xây dựng năm 1954, có công trình xây dựng từ năm 1990. Tòa án cấp sơ thẩm khi xem xét thẩm định tại chỗ không xem xét kết cấu của các công trình đã xây dựng, để xem xét có thể chia di sản bằng hiện vật cho nguyên đơn theo yêu cầu hay không là chưa đảm bảo, ảnh hưởng đến quyền lợi của các đương sự.

Từ những phân tích, nhận định trên, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm thấy Tòa án cấp sơ thẩm đã vi phạm nghiêm trọng về tố tụng, đánh giá không đúng các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập trong hồ sơ vụ án; sai sót trong việc xác định khối di sản thừa kế của cụ H7, cụ Đ để chia theo yêu cầu của các đương sự; thu thập chứng cứ chưa đầy đủ, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự; tại cấp phúc thẩm không thể khắc phục được nên xét thấy cần phải hủy toàn bộ bản án sơ thẩm để giao hồ sơ về cho Tòa án cấp sơ thẩm xét xử lại theo quy định pháp luật.

Bài viết liên quan

Góp ý