Nội dung sửa án:
(i) Đối với bị cáo Trần Thanh Q: Trong vụ án này bị cáo Q giữ vai trò đồng phạm, thấp hơn so với bị cáo T và bị cáo V2; khi nghe bị cáo V2 hỏi thì Q đề xuất số lượng ma túy cần mua về để sử dụng; nhưng bị cáo không tham gia góp tiền mua ma túy, hoạt động liên hệ mua ma túy và trả tiền mua ma túy là do bị cáo V2 và T thực hiện; khi sử dụng ma túy tại phòng 102 của căn hộ, bị cáo Q chỉ có hành vi sử dụng thẻ ngân hàng để nghiền mịn ma túy ketamine và phân chia thành nhiều đường để mọi người sử dụng,bản thân Q sử dụng 02 đường ma túy loại Ketamin, 01 ly ma túy loại nước vui, đối tượng Lê Thị Thảo V1 (17 tuổi 08 tháng 14 ngày) là do người khác rủ tới; Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 7 năm 6 tháng tù bằng với bị cáo V2 là có phần nghiêm khắc; xét bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự, lần đầu phạm tội, là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò thứ yếu không đáng kể; hoàn cảnh gia đình khó khăn là lao động chính có 02 con chưa thành niên, cùng với các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được Tòa án cấp sơ thẩm ghi nhận như: Khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, là thành viên câu lạc bộ thiện nguyện Hoa Sen và có tham gia đóng góp ủng hộ quỹ phòng chống dịch Covid 19 của thành phố Hà Nội; trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm gia đình bị cáo cung cấp thêm tài liệu thể hiện cha vợ bị cáo là ông Hoàng Văn S là quân nhân, cựu chiến binh, thương binh hạng 2/4 tỷ lệ thương tật 61% có đóng góp trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đã tác động gia đình nộp 200.000 đồng tiền án phí HSST, bản thân bị cáo bị bệnh viêm gan virus B mạn thường xuyên phải điều trị ngoại trú; đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS cần áp dụng thêm cho bị cáo; do đó HĐXX thấy có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giảm cho bị cáo một phần hình phạt giúp bị cáo an tâm cải tạo tốt sớm được trở về với gia đình và xã hội.
(ii) Đối với bị cáo Phạm Quốc D: Trong vụ án này bị cáo D không tham gia vào việc bàn bạc mua ma túy, không góp tiền mua ma túy, không biết không tham gia vào hoạt động liên hệ mua ma túy; các đối tượng có liên quan bắt đầu sử dụng ma túy từ lúc 1 giờ 30 phút sáng ngày 4/3/2024 lúc này D đang ngủ, đến 5 giờ sáng cùng ngàyDương thức dậy thấy mọi người đang sử dụng ma túy D cũng vào lấy thẻ nhựa xào ma túy loại Ketamin để mọi người cùng sử dụng và bị cáo cũng sử dụng 04 đường ma túy loại Ketamin, đối tượng Lê Thị Thảo V1 (17 tuổi 08 tháng 14 ngày) là do người khác rủ tới, khi bị cáo xào ma túy Ketamine để mọi người sử dụng thì lúc này không có V1, V1 không sử dụng ma túy do bị cáo xào; xét tính chất mức độ phạm tội của bị cáo là thấp nhất trong vụ án, bị cáo chỉ là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò thứ yếu không đáng kể,Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 7 năm tù là nghiêm khắc; mặt khác Tòa án cấp sơ thẩm chưa xem xét, áp dụng các tình tiết thuộc về nhân thân và điều kiện hoàn cảnh gia đình của bị cáo như: Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự, lần đầu vi phạm pháp luật, là lao động chính, con duy nhất trong gia đình, cha chết từ khi bị cáo còn nhỏ; tại phiên tòa bị cáo trình bày có chung sống như vợ chồng với bà Đỗ Thị Lan A và có 01 con sinh ngày 02/10/2024 nhưng chưa đăng ký kết hôn (kèm giấy khai sinh); sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo tác động gia đình nộp 200.000 đồng tiền án phí HSST; đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS cần áp dụng bổ sung cho bị cáo. Do đó, Tòa án cấp phúc thẩm nhận thấy có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giảm cho bị cáo một phần hình phạt giúp bị cáo an tâm cải tạo tốt sớm được trở về với gia đình và xã hội.