Nội dung sửa án:
Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo 06 năm 03 tháng tù là chưa đúng quy định của Bộ luật hình sự bởi lẽ bị cáo nhiều lần bị Tòa án xét xử: Lần 1 bị xử phạt 04 năm tù về tội: Vận chuyển trái phép chất ma tuý theo Bản án số 24/2003/HSST ngày 03/6/2003 của Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Lai Châu (nay là huyện C, tỉnh Điện Biên), ngày 31/8/2005 chấp hành xong hình phạt tù, đã được xóa án tích. Lần 2 bị xử phạt 07 năm tù về tội: Mua bán trái phép chất ma tuý theo Bản án số 80/2007/HSST ngày 19/6/2007 của Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên, ngày 28/4/2012 chấp hành xong hình phạt tù, đã được xóa án tích. Lần 3 bị cáo bị xử phạt 07 năm 06 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma tuý theo Bản án số 17/2016/HSST ngày 07/9/2016 của Toà án nhân dân thị xã M, tỉnh Điện Biên, tại Bản án này bị cáo đã bị áp dụng tình tiết định khung (tái phạm nguy hiểm) theo quy định tại điểm p khoản 2 Điều 194 của Bộ luật hình sự 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 do các bản án năm 2003 và 2007 của bị cáo chưa được xóa án tích, ngày 09/5/2022 bị cáo chấp hành xong hình phạt tù. Ngày 02/6/2024 bị cáo bị bắt về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, Tòa án cấp sơ thẩm nhận định Bản án xét xử bị cáo năm 2016 chưa được xóa án tích nên bị áp dụng tình tiết định khung hình phạt (Tái phạm nguy hiểm) theo quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự và bị xử phạt 06 năm 03 tháng tù. Hội đồng xét xử xét thấy bản án xét xử bị cáo năm 2016 theo quy định tại điểm p khoản 2 Điều 194 của Bộ luật hình sự 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 là tội phạm rất nghiêm trọng, lần phạm tội này bị cáo tàng trữ 0,94 gam Heroine nhằm mục đích sử dụng là tội phạm nghiêm trọng, các bản án xét xử bị cáo năm 2003 và 2007 đã được xóa án tích hiện chỉ còn bản án 2016 chưa được xóa nên không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 53 Bộ luật hình sự nên lần phạm tội này bị cáo không bị áp dụng tình tiết định khung tái phạm nguy hiểm. Bản án năm 2016 chưa được xóa án tích nên lần phạm tội này bị cáo bị áp dụng là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự (tái phạm) theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, việc Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng tình tiết định khung (tái phạm nguy hiểm) theo điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự là không đúng quy định của Bộ luật hình sự bất lợi cho bị cáo nên đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát về việc áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355; điểm b khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự sửa một phần bản án sơ thẩm số: 01/2024/HS-ST ngày 15 tháng 11 năm 2024 của Tòa án nhân dân thị xã M, tỉnh Điện Biên theo hướng xét xử bị cáo Lò Văn P về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ, Hội đồng xét xử chấp nhận. Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, bị cáo có bố là ông Lò Văn T được tặng thưởng Huân chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước Hạng nhì nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ Luật hình sự. Việc Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo là đúng quy định của Bộ Luật hình sự.
Bị cáo là người có nhân thân xấu, chưa được xóa án tích nên cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn để cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để tiếp tục giáo dục, cải tạo bị cáo. Đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát về mức hình phạt đối với bị cáo là phù hợp Hội đồng xét xử chấp nhận.