Khi nào áp dụng văn bản quy phạm pháp luật, áp dụng tập quán pháp, áp dụng tiền lệ pháp (án lệ), áp dụng tương tự pháp luật, áp dụng các nguyên tắc cơ bản pháp luật dân sự, áp dụng lẽ công bằng?

Khi nào áp dụng văn bản quy phạm pháp luật, áp dụng tập quán pháp, áp dụng tiền lệ pháp (án lệ), áp dụng tương tự pháp luật, áp dụng các nguyên tắc cơ bản pháp luật dân sự, áp dụng lẽ công bằng?

Khi nào áp dụng văn bản quy phạm pháp luật, áp dụng tập quán pháp, áp dụng tiền lệ pháp (án lệ), áp dụng tương tự pháp luật, áp dụng các nguyên tắc cơ bản pháp luật dân sự, áp dụng lẽ công bằng?

Thông qua bài viết này, chúng tôi xin giới thiệu đến quý độc giả bài viết liên quan đến việc áp dụng văn bản quy phạm pháp luật, áp dụng tập quán pháp, áp dụng tiền lệ pháp (án lệ), áp dụng tương tự pháp luật, áp dụng các nguyên tắc cơ bản pháp luật dân sự, áp dụng lẽ công bằng.

MỤC LỤC

1. Phân biệt văn bản quy phạm pháp luật, tập quán pháp, tiền lệ pháp (án lệ), tương tự pháp luật, lẽ công bằng?

1.1. Văn bản quy phạm pháp luật là gì?

1.2. Tập quán pháp là gì?

1.3. Tiền lệ pháp (án lệ) là gì?

1.4. Tương tự pháp luật là gì?

1.5. Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự?

1.6. Lẽ công bằng là gì?

2. Áp dụng văn bản quy phạm pháp luật, áp dụng tập quán pháp, áp dụng tiền lệ pháp (án lệ), áp dụng tương tự pháp luật, áp dụng các nguyên tắc cơ bản pháp luật dân sự, áp dụng lẽ công bằng?

2.1. Áp dụng văn bản quy phạm pháp luật

2.2. Áp dụng tập quán pháp

2.3. Áp dụng tiền lệ pháp (án lệ)

2.4. Áp dụng tương tự pháp luật

2.5. Áp dụng các nguyên tắc cơ bản pháp luật dân sự

2.6. Áp dụng lẽ công bằng

 

Trả lời:

Cho đến trước năm 2014, pháp luật Việt Nam chủ yếu bao gồm hai loại nguồn là văn bản quy phạm pháp luật và tập quán pháp. Từ khi nhà nước ban hành Luật tổ chức Toà án nhân dân 2014, án lệ đã chính thức được thừa nhận là một loại nguồn của pháp luật Việt Nam. Đến nay, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã công bố các án lệ đã được Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua. Bên cạnh đó, quan niệm về lẽ phải, lẽ công bằng cũng được thừa nhận là nguồn của pháp luật Việt Nam hiện nay.

1. Phân biệt văn bản quy phạm pháp luật, tập quán pháp, tiền lệ pháp (án lệ), tương tự pháp luật, lẽ công bằng?

1.1. Văn bản quy phạm pháp luật là gì?

Văn bản quy phạm pháp luật được hiểu là nguồn chủ yếu và quan trọng nhất của pháp luật Việt Nam hiện nay. Pháp luật nước ta có quy định cụ thể về thẩm quyền ban hành, tên gọi, nội dưng, trình tự thủ tục ban hành đối với từng loại văn bản quy phạm pháp luật. Qua các giai đoạn phát triển của đất nước, tên gọi, trình tự, thủ tục cũng như thẩm quyền ban hành đối với từng loại văn bản có thể có sự thay đổi. Hiện nay, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam tương đối phức tạp, với khá nhiều loại văn bản, do khá nhiều chủ thể có thẩm quyền ban hành.

Theo quy định của pháp luật hiện hành tại Điều 4 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 sửa đổi, bổ sung 2020, ở Việt Nam hiện nay có các văn bản quy phạm pháp luật sau đây:

Điều 4. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật

1. Hiến pháp.

2. Bộ luật, luật (sau đây gọi chung là luật), nghị quyết của Quốc hội.

3. Pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội; nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban thường vụ Quốc hội với Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

4. Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước.

5. Nghị định của Chính phủ; nghị quyết liên tịch giữa Chính phủ với Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

6. Quyết định của Thủ tướng Chính phủ.

7. Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

8. Thông tư của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; thông tư của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ; quyết định của Tổng Kiểm toán nhà nước.

8a. Thông tư liên tịch giữa Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán nhà nước, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Không ban hành thông tư liên tịch giữa Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ.

9. Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh).

10. Quyết định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.

11. Văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương ở đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt.

12. Nghị quyết của Hội đồng nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là cấp huyện).

13. Quyết định của Ủy ban nhân dân cấp huyện.

14. Nghị quyết của Hội đồng nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã).

15. Quyết định của Ủy ban nhân dân cấp xã.”

1.2. Tập quán pháp là gì?

Căn cứ theo khoản 1 Điều 5 Bộ luật Dân sự 2015 quy định:

“Điều 5. Áp dụng tập quán

1. Tập quán là quy tắc xử sự có nội dung rõ ràng để xác định quyền, nghĩa vụ của cá nhân, pháp nhân trong quan hệ dân sự cụ thể, được hình thành và lặp đi lặp lại nhiều lần trong một thời gian dài, được thừa nhận và áp dụng rộng rãi trong một vùng, miền, dân tộc, cộng đồng dân cư hoặc trong một lĩnh vực dân sự.”

Ở hình thức này, pháp luật tồn tại dưới dạng thói quen ứng xử của cộng đồng. Nhà nước thừa nhận một tập quán thành tập quán pháp không chỉ đơn giản là sự chấp nhận (không phản đối) của nhà nước đối với một tập quán, khuyến khích xử sự theo tập quán đó mà quan trọng là đưa quyền lực nhà nước vào trong tập quán đó.

Thông thường, nhà nước thừa nhận một tập quán nào đó, biến chúng thành tập quán pháp nhằm đáp ứng nhu cầu quản lí của nhà nước, trong khi chưa có nhu cầu hoặc chưa có điều kiện xây dựng pháp luật thành văn. Đối với xã hội, tập quán pháp thể hiện sự chấp nhận của nhà nước đối với một thói quen ứng xử của cộng đồng, đó chính là sự thống nhất giữa ý chí nhà nước với ý chí cộng đồng. Mặt khác, khi thừa nhận một tập quán là tập quán pháp, nhà nước có các biện pháp kinh tế xã hội nhằm khuyến khích xử sự theo tập quán đó, nhờ đó, tập quán được giữ gìn và phát huy.

Nhà nước thừa nhận tập quán thành tập quán pháp bằng nhiều cách thức khác nhau, có thể liệt kê danh mục các tập quán được nhà nước thừa nhận, viện dẫn các tập quán trong pháp luật thành văn, áp dụng tập quán để giải quyết vụ việc phát sinh trong thực tiễn... Nói cách khác, tập quán pháp có thể được tạo ra từ hoạt động của cơ quan lập pháp, cũng có thể được tạo ra từ hoạt động của các cơ quan tư pháp khi áp dụng tập quán để giải quyết một vụ việc cụ thể. Tùy điều kiện, hoàn cảnh của đất nước mà nhà nước thừa nhận một tập quán nào đó thành tập quán pháp. Nhìn chung, nhà nước thường chỉ thừa nhận những tập quán không trái với những giá trị đạo đức xã hội và trật tự công cộng.

Có thể nói, tập quán pháp là loại nguồn pháp luật được sử dụng sớm nhất, tồn tại một cách khá phổ biến trong thời kì chưa có pháp luật thành văn. Tuy nhiên, tập quán pháp có hạn chế là không xác định, tản mạn, thiếu thống nhất... Vì vậy, cùng với sự phát triển mọi mặt của đời sống xã hội, văn bản quy phạm pháp luật ngày càng chiếm ưu thế thì tập quán pháp ngày càng bị thu hẹp phạm vi sử dụng. Trong điều kiện hiện nay, tập quán pháp đóng vai trò là nguồn bổ sung cho các văn bản quy phạm pháp luật. Thực tế cho thấy, trong hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, với những lí do chủ quan và khách quan làm cho văn bản quy phạm pháp luật có thể có những hạn chế nhất định. Trong điều kiện đó, tập quán của địa phương là nguồn bổ sung quan trọng cho những khoảng trống trong các văn bản quy phạm pháp luật. Pháp luật của các quốc gia thường có các quy định cụ thể về thứ tự áp dụng đôi với tập quán pháp.

1.3. Tiền lệ pháp (án lệ) là gì?

Căn cứ theo Điều 1 Nghị quyết 04/2019/NQ-HĐTP ngày 18/6/2019 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao quy định:

“Điều 1. Án lệ

Án lệ là những lập luận, phán quyết trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án về một vụ việc cụ thể được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao lựa chọn và được Chánh án Tòa án nhân dân tối cao công bố là án lệ để các Tòa án nghiên cứu, áp dụng trong xét xử.”

Như vậy, tiền lệ pháp (án lệ) hay phép xét xử theo tiền lệ được hiểu là một hình thức của pháp luật, theo đó Nhà nước thừa nhận những bản án, quyết định giải quyết vụ việc của tòa án (trong các tập san án lệ) làm khuôn mẫu và cơ sở để đưa ra phán quyết cho những vụ việc hoặc trường hợp có tình tiết hay vấn đề tương tự sau đó. Tiền lệ pháp còn là quá trình làm luật của toà án trong việc công nhận và áp dụng các nguyên tắc mới trong quá trình xét xử.

Tiền lệ pháp hình thành không phải do hoạt động của cơ quan lập pháp mà xuất hiện từ hoạt động của cơ quan hành pháp và tư pháp. Cho nên, tiền lệ pháp chỉ có thể được hình thành từ hoạt động xét xử của cơ quan tư pháp, hình thành từ cơ quan tư pháp chứ không phải từ cơ quan lập pháp hay hành pháp. Tiền lệ pháp hình thành từ các cơ quan tư pháp được gọi là án lệ.

Ở nước ta, tiền lệ pháp đã và đang tồn tại dưới các hình thức như các nghị quyết hướng dẫn xét xử, trao đổi nghiệp vụ tại các buổi tổng kết ngành và dễ thấy nhất là thông qua các quyết định giám đốc thẩm được tập hợp và phát hành. Qua đây, nhiều vướng mắc đã được Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao gỡ vướng và định hướng cho các tòa cấp dưới làm theo.

Để được chọn trở thành án lệ thì những bản án, quyết định giải quyết vụ việc của tòa án phải thỏa mãn được các tiêu chí được quy định tại Điều 2 Nghị quyết 04/2019/NQ-HĐTP ngày 18/6/2019 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao như sau:

“Điều 2. Tiêu chí lựa chọn án lệ

Án lệ được lựa chọn phải đáp ứng các tiêu chí sau đây:

1. Có giá trị làm rõ quy định của pháp luật còn có cách hiểu khác nhau, phân tích, giải thích các vấn đề, sự kiện pháp lý và chỉ ra nguyên tắc, đường lối xử lý, quy phạm pháp luật cần áp dụng trong một vụ việc cụ thể hoặc thể hiện lẽ công bằng đối với những vấn đề chưa có điều luật quy định cụ thể;

2. Có tính chuẩn mực;

3. Có giá trị hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử.”

1.4. Tương tự pháp luật là gì?

Áp dụng tương tự pháp luật được hiểu là giải quyết vụ việc pháp lí cụ thể trên cơ sở quy phạm pháp luật điều chỉnh vụ việc khác có nội dung giống (tương tự) vụ việc đang cần giải quyết hoặc trên cơ sở các nguyên tắc pháp luật chung. Là biện pháp mang tính chất tạm thời nhằm khắc phục những lỗ hổng của pháp luật.

Áp dụng tương tự pháp luật được quy định tại Bộ luật Dân sự 2015 và là một biện pháp khắc phục những hạn chế và tình trạng chưa thật đầy đủ của những quy định pháp luật điều chỉnh các quan hệ nhân thân và tài sản trong xã hội thuộc đối tượng điều chỉnh của pháp luật dân sự.

Việc áp dụng tương tự pháp luật nhằm giải quyết kịp thời các vụ việc dân sự đã phát sinh nhưng chưa có quy phạm pháp luật trực tiếp hoặc tập quán để điều chỉnh, giải quyết. Tuy nhiên, việc áp dụng tương tự pháp luật dân sự phải tuân theo những điều kiện và nguyên tắc nhất định.

1.5. Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự?

Căn cứ theo quy định tại Điều 3 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự như sau:

“Điều 3. Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự

1. Mọi cá nhân, pháp nhân đều bình đẳng, không được lấy bất kỳ lý do nào để phân biệt đối xử; được pháp luật bảo hộ như nhau về các quyền nhân thân và tài sản.

2. Cá nhân, pháp nhân xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận. Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng.

3. Cá nhân, pháp nhân phải xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình một cách thiện chí, trung thực.

4. Việc xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự không được xâm phạm đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.

5. Cá nhân, pháp nhân phải tự chịu trách nhiệm về việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự.”

1.6. Lẽ công bằng là gì?

Hiện nay, pháp luật chưa có quy định giải thích thuật ngữ "Lẽ công bằng" là gì. Tuy nhiên, có thể hiểu như sau:

Lẽ công bằng được hiểu là chuẩn mực xử sự trong quan hệ xã hội, phù hợp với nhận thức của nhiều người nhằm đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của các chủ thể trong quan hệ đó và được thực hiện một lẽ đương nhiên, tất yếu. Việc áp dụng lẽ công bằng trong quá trình giải quyết các tranh chấp dân sự sẽ đảm bảo các tranh chấp được giải quyết một cách thấu tình và đạt lý.

2. Áp dụng văn bản quy phạm pháp luật, áp dụng tập quán pháp, áp dụng tiền lệ pháp (án lệ), áp dụng tương tự pháp luật, áp dụng các nguyên tắc cơ bản pháp luật dân sự, áp dụng lẽ công bằng?

Căn cứ theo Điều 45 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 có quy định về nguyên tắc giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp chưa có điều luật để áp dụng như sau:

“Điều 45. Nguyên tắc giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp chưa có điều luật để áp dụng

1. Việc áp dụng tập quán được thực hiện như sau:

Tòa án áp dụng tập quán để giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp các bên không có thỏa thuận và pháp luật không quy định. Tập quán không được trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật dân sự.

Khi yêu cầu Tòa án giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền viện dẫn tập quán để yêu cầu Tòa án xem xét áp dụng.

Tòa án có trách nhiệm xác định giá trị áp dụng của tập quán bảo đảm đúng quy định tại Điều 5 của Bộ luật dân sự.

Trường hợp các đương sự viện dẫn các tập quán khác nhau thì tập quán có giá trị áp dụng là tập quán được thừa nhận tại nơi phát sinh vụ việc dân sự.

2. Việc áp dụng tương tự pháp luật được thực hiện như sau:

Tòa án áp dụng tương tự pháp luật để giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp các bên không có thỏa thuận, pháp luật không có quy định và không có tập quán được áp dụng theo quy định tại Điều 5 của Bộ luật dân sự và khoản 1 Điều này.

Khi áp dụng tương tự pháp luật, Tòa án phải xác định rõ tính chất pháp lý của vụ việc dân sự, xác định rõ ràng trong hệ thống pháp luật hiện hành không có quy phạm pháp luật nào điều chỉnh quan hệ đó và xác định quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự tương tự.

3. Việc áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ, lẽ công bằng được thực hiện như sau:

Tòa án áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ, lẽ công bằng để giải quyết vụ việc dân sự khi không thể áp dụng tập quán, tương tự pháp luật theo quy định tại Điều 5 và khoản 1 Điều 6 của Bộ luật dân sự, khoản 1 và khoản 2 Điều này.

Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự là những nguyên tắc được quy định tại Điều 3 của Bộ luật dân sự.

Án lệ được Tòa án nghiên cứu, áp dụng trong giải quyết vụ việc dân sự khi đã được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao lựa chọn và được Chánh án Tòa án nhân dân tối cao công bố.

Lẽ công bằng được xác định trên cơ sở lẽ phải được mọi người trong xã hội thừa nhận, phù hợp với nguyên tắc nhân đạo, không thiên vị và bình đẳng về quyền và nghĩa vụ của các đương sự trong vụ việc dân sự đó.”

Như vậy, theo Điều 45 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, việc áp dụng các căn cứ để giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp chưa có điều luật để áp dụng thực hiện theo thứ tự sau: (1) Áp dụng tập quán; (2) Áp dụng tương tự pháp luật; (3) Áp dụng nguyên tắc cơ bản của pháp luật, án lệ, lẽ công bằng.

2.1. Áp dụng văn bản quy phạm pháp luật

Xét về tính thứ bậc hiệu lực pháp lý của các văn bản quy phạm pháp luật ở Việt Nam hiện nay, ngoài Hiến pháp được quy định chính thức là văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lí cao nhất, còn lại các văn bản khác không được qui định chính thức thứ tự cao thấp về hiệu lực. Tuy nhiên, bằng việc qui định hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và thẩm quyền ban hành chúng, nhà nước đã đồng thời xác định thứ tự cao thấp về hiệu lực của từng loại văn bản quy phạm pháp luật, đảm bảo cho việc thực hiện và áp dụng pháp luật một cách đúng đắn.

2.2. Áp dụng tập quán pháp

Do quan hệ dân sự rất phong phú, đa dạng và phức tạp nên Bộ luật dân sự không thể dự liệu hết được những quan hệ nhân thân và tài sản trong giao dịch dân sự trong xã hội. Việc áp dụng tập quán để giải quyết các sự việc phát sinh là nhu cầu cần thiết và được pháp luật thừa nhận sẽ tạo điều kiện cho các chủ thể cũng như cơ quan có thẩm quyền có thể áp dụng để giải quyết. Điều kiện để áp dụng tập quán trong giao dịch dân sự là khi các vấn đề đó chưa được pháp luật quy định cụ thể. Bởi vì khi quan hệ pháp luật đã được luật quy định cụ thể thì nguyên tắc cơ bản trong giao dịch dân sự là phải tuân theo quy định của pháp luật.

Điển hình, để giải quyết các vấn đề phát sinh trong đời sông xã hội, Bộ luật Dân sự 2015 đã quy định một số cách thức giải quyết theo tập quán như sau:

- Đối với nghĩa vụ của người hưởng dụng, khoản 4 Điều 262 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: 

“Điều 262. Nghĩa vụ của người hưởng dụng

4. Bảo dưỡng, sửa chữa tài sản theo định kỳ để bảo đảm cho việc sử dụng bình thường; khôi phục tình trạng của tài sản và khắc phục các hậu quả xấu đối với tài sản do việc không thực hiện tốt nghĩa vụ của mình phù hợp với yêu cầu kỹ thuật hoặc theo tập quán về bảo quản tài sản.”

- Đối với việc giải quyết tranh chấp ranh giới bất động sản, tại khoản 1 Điều 175 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: 

“Điều 175. Ranh giới giữa các bất động sản

1. Ranh giới giữa các bất động sản liền kề được xác định theo thỏa thuận hoặc theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Ranh giới cũng có thể được xác định theo tập quán hoặc theo ranh giới đã tồn tại từ 30 năm trở lên mà không có tranh chấp.

Không được lấn, chiếm, thay đổi mốc giới ngăn cách, kể cả trường hợp ranh giới là kênh, mương, hào, rãnh, bờ ruộng. Mọi chủ thể có nghĩa vụ tôn trọng, duy trì ranh giới chung.”

Theo quy định này, nếu tập quán có những cách thức xác định ranh giới khi giải quyết tranh chấp ranh giới đất thì được áp dụng để giải quyết và được pháp luật thừa nhận.

 - Đối với việc đặt tên cho con, khoản 2 Điều 26 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: 

“Điều 26. Quyền có họ, tên

2. Họ của cá nhân được xác định là họ của cha đẻ hoặc họ của mẹ đẻ theo thỏa thuận của cha mẹ; nếu không có thỏa thuận thì họ của con được xác định theo tập quán. Trường hợp chưa xác định được cha đẻ thì họ của con được xác định theo họ của mẹ đẻ.

…”

Căn cứ theo khoản 2 Điều 5 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: 

“Điều 5. Áp dụng tập quán

2. Trường hợp các bên không có thỏa thuận và pháp luật không quy định thì có thể áp dụng tập quán nhưng tập quán áp dụng không được trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật này.”

Trong giao dịch dân sự thì sự tự do, tự nguyện trong việc thỏa thuận, cam kết luôn được pháp luật thừa nhận nếu không trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự. Do các giao dịch dân sự trong xã hội luôn phát sinh, thay đổi không ngừng và pháp luật cũng không thể dự liệu hết được. Chính vì vậy, việc thừa nhận việc áp dụng tập quán trong giao dịch dân sự giúp cho việc giải quyết các vấn đề phát sinh được thuận lợi, thông suốt, phòng ngừa, hạn chế tranh chấp xảy ra. Tuy nhiên, để tập quán được áp dụng và giải quyết các giao dịch dân sự thì tập quán đó không được trái với nguyên tắc cơ bản của Bộ luật dân sự.

Có thể thấy, trong đời sống xã hội thì việc áp dụng tập quán để giải quyết các giao dịch dân sự phát sinh khi không có quy định của pháp luật điều chỉnh là điều thật sự cần thiết. Việc áp dụng những tập quán tiến bộ để giải quyết các vụ việc dân sự là nhu cầu chính đáng và được pháp luật công nhận. Áp dụng tập quán trong giải quyết các vụ việc dân sự giúp cho các chủ thể tham gia giải quyết các vụ việc một cách thấu tình, đạt lý, tuân theo pháp luật góp phẩn ổn định xã hội.

2.3. Áp dụng tiền lệ pháp (án lệ)

Đối với Việt Nam, vấn đề nguồn pháp luật trong đó có án lệ đã được khẳng định và đang được triển khai nghiên cứu, xây dựng lộ trình và cách thức áp dụng án lệ. Theo đó, việc áp dụng án lệ cần tuân theo nguyên tắc: “Bảo đảm những vụ việc có tình huống pháp lý tương tự thì phải được giải quyết như nhau: Số, tên án lệ, tình huống pháp lý, giải pháp pháp lý trong án lệ và tình huống pháp lý của vụ việc đang được giải quyết phải được viện dẫn, phân tích trong phần “Nhận định của Tòa án”; Tùy từng trường hợp cụ thể có thể trích dẫn toàn bộ hoặc một phần nội dung của án lệ để làm rõ quan điểm của Tòa án trong việc xét xử, giải quyết vụ việc tương tự”.

Ngoài ra, các quy định liên quan đến án lệ còn được quy định trong Luật Tố tụng hành chính 2015, Bộ luật Tố tụng dân sự 2015… Căn cứ theo khoản 2 Điều 6 Bộ luật Dân sự 2015 quy định:

“Điều 6. Áp dụng tương tự pháp luật

….

2. Trường hợp không thể áp dụng tương tự pháp luật theo quy định tại khoản 1 Điều này thì áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật này, án lệ, lẽ công bằng.”

Vì vậy, pháp luật Việt Nam đã ghi nhận các vấn đề liên quan đến án lệ trong các luật, bộ luật nhằm đảm bảo tính có căn cứ và hợp pháp trong quá trình áp dụng án lệ đối với việc giải quyết các vụ án, vụ việc tương tự trong tương lai.

2.4. Áp dụng tương tự pháp luật

Trong trường hợp chưa có điều luật để áp dụng thì việc áp dụng tương tự pháp luật để giải quyết vụ việc dân sự được thực hiện như sau:

- Tòa án áp dụng tương tự pháp luật để giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp các bên không có thỏa thuận, pháp luật không có quy định và không có tập quán được áp dụng theo quy định tại Điều 5 Bộ luật Dân sự 2015 và khoản 1 Điều 45 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.

- Khi áp dụng tương tự pháp luật, Tòa án phải xác định rõ tính chất pháp lý của vụ việc dân sự, xác định rõ ràng trong hệ thống pháp luật hiện hành không có quy phạm pháp luật nào điều chỉnh quan hệ đó và xác định quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự tương tự.

2.5. Áp dụng các nguyên tắc cơ bản pháp luật dân sự

Nguyên tắc của luật dân sự là những quy tắc chung được pháp luật quy định có vai trò định hướng và chỉ đạo toàn bộ các quy phạm của luật dân sự. Các nguyên tắc của luật dân sự có ý nghĩa rất quan trọng trong việc áp dụng đúng luật dân sự, ngoài ra còn là cơ sở để áp dụng pháp luật trong những trường hợp các quan hệ xã hội chưa có sự điều chỉnh bằng pháp luật.

2.6. Áp dụng lẽ công bằng

Trong tố tụng dân sự việc áp dụng lẽ công bằng được xác định trên cơ sở lẽ phải được mọi người trong xã hội thừa nhận, phù hợp với nguyên tắc nhân đạo, không thiên vị và bình đẳng về quyền và nghĩa vụ của các đương sự trong vụ việc dân sự đó.

Trân trọng./.

Góp ý