Quyết định giám đốc thẩm số 03/2024/HNGĐ-GĐT ngày 09/5/2024 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử vụ án hôn nhân gia đình về “Tranh chấp chia tài sản sau ly hôn”
Nội dung hủy án:
1. Về định giá tài sản: tại Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 06/6/2022 của Tòa án nhân dân huyện E (bl 419) thể hiện các thửa số 204 (số cũ 22), 254 (số cũ 23), 180 (số cũ 24) có mặt tiền tiếp giáp đường N (Quốc lộ B); còn thửa số 255 (số cũ 26) và thửa số 205 (số cũ 27) có mặt tiền tiếp giáp đường bê tông rộng khoảng 2 mét. Tại mục 9.1 Chứng thư định giá số 473 BĐS/2023/CTTĐG-THBM ngày 19/6/2023 của Công ty cổ phần T1 Ban Mê đều xác định giá trị quyền sử dụng đất của cả 5 thửa đất nêu trên cùng một mức giá 42.887.000 đồng/m2 là không đúng quy định tại Điều 112 Luật Đất đai năm 2013 về nguyên tắc, phương pháp định giá đất, bởi lẽ các thửa đất tiếp giáp với đường Quốc lộ và đường bê tông (đường hẽm) có vị trí khác nhau, khả năng sinh lợi khác nhau. Việc xác định cùng một mức giá của 5 thửa đất nêu trên đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự (ông S) khi nhận hiện vật là quyền sử dụng đất đối với thửa số 255 (số cũ 26) và thửa số 205 (số cũ 27). Sau khi xét xử sơ thẩm, tại đơn kháng cáo ngày 15/9/2023 (bl 1285, 1290), ông S đã khiếu nại về kết quả định giá. Tại phiên toà phúc thẩm ngày 04/12/2023, Hội đồng xét xử không làm rõ nội dung kháng cáo này của ông S để yêu cầu đương sự định giá lại tài sản mà chỉ nhận định việc định giá có sai sót về mặt thủ tục là chưa xem xét toàn diện vụ án.
2. Đối với yêu cầu phản tố của ông Lê Văn S yêu cầu chia số tiền góp vốn tại Công ty cổ phần N2 (sau đây viết tắt là Công ty): …. Ông S không thừa nhận có việc nhập hàng để cấn trừ phần góp vốn như bà L trình bày, đồng thời trình bày của bà L cũng mâu thuẫn với nội dung Đơn trình bày nêu trên của Công ty. Ngoài ra, bà Đào Thị Thanh L là Giám đốc Chi nhánh Buôn Ma Thuột của Công ty nên nội dung trình bày này của Công ty chưa thực sự khách quan. Trường hợp này cần thu thập thêm tài liệu, chứng cứ thể hiện bà L đã thực sự rút vốn hay chưa, rút tại thời điểm nào, rút vốn bằng hình thức nào, đăng ký doanh nghiệp và Sổ đăng ký cổ đông của Công ty còn tên bà L hay không… từ đó mới có đủ cơ sở giải quyết yêu cầu phản tố này của ông S. Toà án cấp phúc thẩm và Toà án cấp sơ thẩm chỉ căn cứ vào nội dung trình bày của bà L và Công ty, xác định khoản tiền góp vốn này chỉ còn 47.148.000 đồng là chưa đủ cơ sở.
3.Về tính công sức đóng góp, tạo lập tài sản để phân chia tài sản chung: Đối với thửa đất số 23 (số cũ) …. đánh giá về nguồn gốc, công sức hình thành tài sản chung thì ông S có công sức đóng góp lớn hơn bà L. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm không xem xét nguồn gốc tài sản mà lại chia tỉ lệ 5/5 đối với giá trị thửa đất và tài sản trên thửa đất này là không phù hợp với Án lệ số 03/2016/AL ngày 06/4/2016 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, không đảm bảo quyền lợi cho ông S. Đối với các thửa đất số 31, 48a, 49a, 26, 27 (số cũ): ông Lê Văn S khiếu nại cho rằng thửa số 31 là tài sản riêng của ông do ông nhận chuyển nhượng từ bà Huỳnh Thị Phương L3 theo Đơn xin nhượng đất thổ cư và nhà ở ngày 08/02/2003 (bl 581) và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AO 001952 do UBND huyện E cấp ngày 11/3/2009 cho một mình ông Lê Văn S đứng tên (bl 569-570). Còn các thửa 48a có nguồn gốc từ cụ Đoàn Thị H1 và cụ Lê Văn S2 (cha mẹ ông S) tặng cho ông Lê Văn S và bà Đào Thị Thanh L theo Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 11/5/2005 (bl 427); thửa 49a có nguồn gốc từ cố Lê Thị S3 (bà nội của ông S) tặng cho ông Lê Văn S và bà Đào Thị Thanh L theo Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 03/11/2005 (bl 517-518); thửa 27 do một mình ông S đứng tên trên Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 12/6/2006 với ông Đặng Kim S4 và bà Trần Thị Thu L4 (bl 486); thửa 26 do một mình ông S đứng tên trên Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 05/4/2006 với ông Đặng Kim S4 (bl 505). Các thửa đất này sau đó được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông S với bà L. Trong quá trình giải quyết vụ án, mặc dù ông S đều thừa nhận các tài sản này là tài sản chung của vợ chồng nhưng cho rằng ông có công sức đóng góp nhiều hơn. Căn cứ các tài liệu, chứng cứ nêu trên thì nguồn gốc hình thành các tài sản này là do được tặng cho từ cha mẹ, bà nội của ông S hoặc do một mình ông S nhận chuyển nhượng. Do đó, đánh giá về nguồn gốc, công sức tạo lập, hình thành các tài sản này thì ông S có công sức đóng góp lớn hơn bà L. Tòa án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm chia giá trị các tài sản này theo tỷ lệ 5/5 là không đúng với Án lệ số 03/2016/AL ngày 06/4/2016 nêu trên, ảnh hưởng đến quyền lợi của ông S. Như vậy, Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm chưa xem xét nguồn gốc tài sản và đánh giá công sức đóng góp tạo lập nên các tài sản trên, từ đó chia tài sản chung sau ly hôn không phù hợp là ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông S.
4. Về việc chia hiện vật: Tại hồ sơ vụ án thể hiện, cả nguyên đơn và bị đơn đều thừa nhận Cửa hàng Văn Sang tọa lạc trên các thửa đất số 22, 23, 24, 26, 27 (số thửa cũ). Mặt tiền Cửa hàng V gồm 2 gian hàng số 1 và số 2 nằm trên 3 thửa 22, 23, 24; tại Biên bản thẩm định tại chỗ ngày 06/6/2022 thể hiện: “Trên thửa đất số 22, tờ bản đồ số 9 là quán xây đang kinh doanh bán hàng điện tử nhà xây hai lầu, nền lát gạch hoa xây hết phần diện tích đất; trên các thửa đất số 23, 24, tờ bản đồ số 9 là quán xây cấp 4, nền lát gạch hoa, xây hết phần diện tích đất, mái lợp tôn” (bl 409). Tại các Biên bản ghi lời khai, Biên bản hòa giải vào ngày 29/10/2021, ngày 07/4/2022, ngày 30/6/2022, ngày 28/6/2023, các bên đương sự thống nhất: “Trường hợp ai mà được Tòa án giao cho cửa hàng tiếp tục kinh doanh thì có trách nhiệm nhận nợ số nợ, có trách nhiệm đòi nợ theo quy định”. Căn cứ nguồn gốc hình thành tài sản và người đang trực tiếp quản lý Cửa hàng Văn S là ông S, còn bà L đã chuyển đi nơi khác sinh sống nên Tòa án đã giao hàng tồn và số tiền khách hàng nợ cho ông S. Nhưng Tòa án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm lại tách một phần cửa hàng số 2 (thửa đất số 23) giao cho ông S, còn giao thửa đất số 24 (một phần cửa hàng số 2) có phần diện tích và phần mặt tiền cửa hàng lớn hơn cả cho bà L là không hợp lý, vì: theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 59 của Luật Hôn nhân và gia đình, nguyên tắc giải quyết tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn phải “Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập”, việc Toà án chia cửa hàng (gồm 3 thửa đất phía trước) ảnh hưởng đến việc khả năng sinh lợi của cửa hàng và công việc tiếp tục sản xuất kinh doanh của ông S (là người nhận hàng tồn và thu hồi nợ). Theo thoả thuận của các bên đương sự thì bên nào nhận của hàng thì phải nhận hàng tồn, thu hồi nợ nhưng Toà án quyết định giao một phần cửa hàng cho bà L nhưng không chia số hàng hay giao cho bà L thu hồi một phần nợ là vừa không đúng thoả thuận của các bên đương sự vừa vi phạm nguyên tắc chia tài sản trong sản xuất, kinh doanh. Nên cần phải hủy bản án sơ thẩm và phúc thẩm về phần này để chia lại phần hiện vật đảm bảo đúng pháp luật.