Quyết định giám đốc thẩm số 16/2023/HNGĐ-GĐT ngày 20/11/2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử vụ án hôn nhân gia đình về “Tranh chấp ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn và tranh chấp hợp đồng vay tài sản”
Nội dung hủy án:
1. Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng: bà H1 là người ký hợp đồng đặt cọc, hợp đồng chuyển nhượng với vợ, chồng ông Ch, bà H, giữa bà H1, ông C có Văn bản thỏa thuận tài sản riêng của vợ, chồng nên xác định nhà, đất số 27 CB có nguồn gốc là tài sản riêng của bà H1, là không đúng. Tòa án cấp sơ thẩm còn nhận định việc ông C khai có đưa tiền cho bà H1 mua nhà là không có cơ sở chấp nhận. Bởi lẽ, bà H1 trình bày bà mua nhà bằng tài sản riêng là tiền tiết kiệm, nhưng sổ tiết kiệm của bà H1 cũng trong thời kỳ hôn nhân. Ngoài ra, hồ sơ vụ án cũng thể hiện, năm 2015, bà Châu Thị T3 (chị gái ông C) và bà Lê Thị Kim O có lập hợp đồng tặng cho ông C toàn bộ lợi nhuận từ việc kinh doanh của gia đình. Ông C trình bày đã sử dụng khoản lợi nhuận này vào việc kinh doanh của vợ, chồng để tạo lập tài sản chung. Ông C còn trình bày gia đình ông còn thế chấp tài sản cho ngân hàng để lấy tiền giúp cho vợ, chồng ông C, bà H1 kinh doanh vì công ty của bà H1 nhiều năm làm ăn thua lỗ; bà H1 thừa nhận có việc gia đình ông C hỗ trợ vay tiền nhưng là để trả các khoản nợ của ông C.
2. Theo quy định tại Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, nguyên tắc giải quyết tài sản chung của vợ, chồng khi ly hôn được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố khác như công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung, bảo vệ lợi ích của mỗi bên trong sản xuất kinh doanh. Quá trình giải quyết vụ án, bà H1 và ông C đều trình bày có nhu cầu nhận nhà và hoàn trả cho bên kia giá trị chênh lệch. Trong trường hợp này, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm chưa đánh giá công sức đóng góp của các bên trong việc tạo lập khối tài sản chung để chia tài sản chung theo tỷ lệ các bên cho hợp lý, phù hợp. Tòa án cấp sơ thẩm xác định nhà, đất số 27 CB là tài sản riêng của bà H1 nhưng lại quyết định chia cho bà H1 được hưởng 80% giá trị tài sản, ông C được hưởng 20% giá trị tài sản và không quyết định số tiền cụ thể mỗi bên được hưởng là bao nhiêu là chưa đủ căn cứ, chưa đánh giá đúng công sức đóng góp của ông C.
3.Đối chiếu các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án như: Hợp đồng thế chấp bất động sản số 087/2014/5918939/HĐBĐ ngày 26/8/2014, do vợ chồng ông C, bà H1 ký thế chấp nhà, đất số 27 CB tại Ngân hàng B để bảo đảm cho khoản vay của vợ chồng ông C, bà H1 tại Ngân hàng này; Hợp đồng tín dụng vay tiền của Ngân hàng B; Bảng kê rút vốn tại Ngân hàng B, Đơn yêu cầu đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất đều thể hiện ông C và bà H1 cùng đứng tên bên vay. Quá trình xây dựng nhà, đất số 27 CB, ông C là người đứng tên ký các Hợp đồng thi công, Hợp đồng giao nhận thi công xây dựng với Công ty D, Công ty ML; bà H1 đứng tên trên một số chứng từ thanh toán cho Công ty D, Công ty ML. Như vậy, tài sản tranh chấp là nhà, đất số 27 CB được hình thành trong thời kỳ hôn nhân. Mặc dù ngày 15/8/2014, ông C và bà H1 lập “Văn bản thỏa thuận tài sản riêng của vợ chồng”, nhưng sau đó ông C và bà H1 đã cùng ký Hợp đồng thế chấp bất động sản số 087/2014/5918939/HĐBĐ tại Ngân hàng B là sau thời điểm lập Văn bản thỏa thuận tài sản riêng của vợ chồng nêu trên và cùng thực hiện các công việc khác như xây dựng, sửa chữa nhà, đất số 27 CB. Do đó, Tòa án cấp phúc thẩm nhận định nhà, đất số 27 CB là tài sản chung của vợ chồng ông C, bà H1; bà H1 có công sức đóng góp nhiều hơn trong việc tạo lập căn nhà này nên việc Tòa án cấp sơ thẩm giao nhà, đất số 27 CB nêu trên cho bà H1 là có căn cứ, đúng pháp luật, nhưng Tòa án cấp phúc thẩm lại nhận định nợ chung lớn hơn tài sản chung và khấu trừ thì tài sản chung không còn nên bác yêu cầu chia tài sản chung là không đúng.
4.Đối với các khoản nợ chung: Đối với khoản nợ ông Nguyễn Văn Q số tiền 4.000.000.000 đồng và khoản nợ của ông Trương Mạnh H2 số tiền 3.000.000.000 đồng. Bà H1 xác định có vay của ông Nguyễn Văn Q 4.000.000.000 đồng, vay của ông Trương Mạnh H2 3.000.000.000 đồng để trả tiền cho việc mua nhà, đất số 27 CB và trả nợ Ngân hàng; bà đã trả được một phần tiền lãi, khi trả không có biên nhận. Tại phiên tòa sơ thẩm, ông Q, ông H2 cũng thừa nhận khi cho bà H1 vay không liên hệ, không thông báo cho ông C biết vì tin tưởng bà H1 là bạn bè. Bà H1 trình bày khi vay tiền bà có thông báo cho ông C biết nhưng ông C không thừa nhận và cho rằng đây là khoản nợ riêng của bà H1. Tại phiên tòa phúc thẩm, bà H1 lại trình bày việc vay tiền của ông Q, ông H2 đều không thông báo cho ông C và xác định khoản tiền vay của ông Q, ông H2 là nợ riêng của bà H1. Như vậy, lời trình bày của bà H1 về khoản tiền vay của ông Q và ông H2 là không thống nhất, có mâu thuẫn. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xác định hai khoản nợ này là nợ chung của ông C và bà H1 là chưa đủ cơ sở.
5. Đối với các khoản nợ khác: Quá trình giải quyết vụ án, ông C thống nhất với bà H1 các khoản nợ chung của vợ chồng gồm:
- Nợ Ngân hàng Thương mại Cổ phần ĐTPT số tiền gốc là 6.850.000.000 đồng
- Nợ bà Lâm Thị Ngọc T1 số tiền gốc 5.000.000.000 đồng
- Nợ Công ty TNHH D số tiền gốc 658.000.000 đồng
- Nợ Công ty TNHH ML số tiền gốc 354.000.000 đồng
- Nợ Công ty TNHH MTX số tiền gốc là 136.543.000 đồng
Như vậy, tổng số nợ chung của bà H1, ông C là 12.998.543.000 đồng. Tòa án cấp phúc thẩm tính nhập số tiền đã trả vào những khoản nợ gốc, đồng thời xác định khoản tiền bà H1 nợ riêng của ông Q và ông H2 là nợ chung của vợ chồng ông C, bà H1 và nhận định tổng số nợ chung của vợ chồng ông C, bà H1 là 31.449.332.738 đồng là không chính xác.