Quyết định giám đốc thẩm số 27/2022/HNGĐ-GĐT ngày 13/12/2022 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử vụ án hôn nhân và gia đình về “Tranh chấp chia tài sản sau khi ly hôn, tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”

Quyết định giám đốc thẩm số 27/2022/HNGĐ-GĐT ngày 13/12/2022 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử vụ án hôn nhân và gia đình về “Tranh chấp chia tài sản sau khi ly hôn, tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”

Nội dung hủy án:

1. Theo đơn khởi kiện đề ngày 28/12/2017, Bà P1 yêu cầu Tòa án chia tài sản chung của vợ chồng là phần đất có diện tích 1.909 m2 (đo đạc thực tế là 1.640,5m2) thuộc thửa số 261, tờ bản đồ số 14, loại đất trồng cây lâu năm khác, tọa lạc tại xã K5, huyện K3, tỉnh Bình Dương (sau đây được gọi là phần đất tranh chấp), có nguồn gốc do Ông N1 nhận chuyển nhượng của Bà Nguyễn Thị Ngọc L1 theo Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được Ủy ban nhân dân xã K5 chứng thực ngày 28/12/2007, số 706, Quyển số 01/2007/TP/CC-SCT/HĐGD và được Ủy ban nhân dân huyện K3 cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AK 282983, số vào sổ cấp GCN H05591 ngày 07/01/2008 mang tên Ông Trần Văn N1. Như vậy, phần đất tranh chấp trên là tài sản được hình thành trong thời kỳ hôn nhân của Ông N1, Bà P1 đang tồn tại. Mặc dù chỉ có Ông N1 là người trực tiếp nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ Bà L1, nhưng Ông N1 không cung cấp được chứng cứ chứng minh đây là tài sản riêng của ông. Căn cứ quy định tại Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 (có hiệu lực tại thời điểm Ông N1 được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) thì đủ cơ sở xác định phần đất tranh chấp là tài sản chung của Bà P1, Ông N1. Tại Đơn xác nhận của bà Trần Thị Duyên (chị ruột của Ông N1), được Ủy ban nhân dân xã K5 chứng thực ngày 15/7/2020, bà Duyên xác nhận Ông N1, Bà P1 và con chung là chị Trần Ngọc T1 sống với nhau từ năm 1998 đến năm 2009 thì ly hôn; sau đó Bà P1 và chị T1 mới đi nơi khác sinh sống, không có việc ly thân từ năm 2007 và Bà P1 bỏ đi khỏi địa phương từ năm 2007. Các Tòa án cấp sơ thẩm, cấp phúc thẩm nhận định do Bà P1 đi khỏi địa phương và sống ly thân với Ông N1 từ năm 2007, không đóng góp công sức gì vào việc nhận chuyển nhượng phần đất trên, để xác định phần đất tranh chấp là tài sản riêng của Ông N1 là không đúng.

2. Yêu cầu khởi kiện của Bà P1 đã được Tòa án nhân dân huyện K3, tỉnh Bình Dương thụ lý theo Thông báo số 17/2018/TLST-HNGĐ ngày 17/01/2018. Quá trình Tòa án giải quyết vụ án thì ngày 13/4/2018, Ông Trần Văn N1 lại ký hợp đồng chuyển nhượng cho Ông Nguyễn Khắc Đ1 quyền sử dụng diện tích đất nêu trên. Ông Đ1 cũng thừa nhận ông biết Bà P1 đang tranh chấp đất với Ông N1, nhưng ông vẫn ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng phần đất với Ông N1 mà không có sự đồng ý của Bà P1. Việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa Ông N1 và Ông Đ1 đã vi phạm quy định tại điểm b khoản 1 Điều 188 Luật Đất đai năm 2013 và Ông Đ1 không được xem là người ngay tình trong việc nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất, nên Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất này bị vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật theo quy định tại Điều 123 Bô luật Dân sự năm 2015. Các Tòa án cấp sơ thẩm, cấp phúc thẩm nhận định do Ông N1 đã nhận của Ông Đ1 số tiền 650.000.000 đồng trên tổng số 680.000.000 đồng (tương đương 95% giá trị hợp đồng) nên công nhận hiệu lực của giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa Ông N1 và Ông Đ1 được lập vào ngày 13/4/2018 là sai lầm trong việc áp dụng pháp luật.

3. Quá trình giải quyết vụ án ở cấp phúc thẩm, Tòa án đã đưa anh Lê Thanh S1 (sinh năm 1995, địa chỉ thường trú: Tổ 1, Ấp K4, xã K5, huyện K3, tỉnh Bình Dương) vào tham gia tố tụng với tư cách là người kế thừa nghĩa vụ tố tụng của Ông Trần Văn N1, vì cho rằng anh S1 là con riêng của Ông N1. Tại Đơn trình bày ngày 12/6/2020, anh S1 có ý kiến: “Mặc dù tôi là con ruột của Ông N1, tuy nhiên tôi đã không sống chung, không có qua lại với Ông N1 từ thời điểm tôi sinh ra tới nay; Giấy khai sinh của tôi cũng không để tên cha mà chỉ để tên mẹ là bà Lê Thị Nơi. Nhận thấy tôi không liên quan gì đến vụ án đang tranh chấp, không có bất cứ quyền lợi cũng như nghĩa vụ gì đối với tài sản đang tranh chấp; tôi không yêu cầu giải quyết quyền lợi gì đối với di sản cũng như nghĩa vụ mà Ông N1 chết để lại (nếu có).” (BL 235). Tài liệu có trong hồ sơ vụ án như bản phô-tô Giấy khai sinh (bản sao) của anh Lê Thanh S1, không có chứng thực, trích sao của cơ quan có thẩm quyền, thể hiện anh Lê Thanh S1 có mẹ tên là Lê Thị Nơi, phần họ và tên cha để trống (BL 229). Do đó, chưa đủ cơ sở xác định anh S1 là con đẻ của Ông N1. Việc Tòa án cấp phúc thẩm đưa anh S1 vào tham gia tố tụng và nhận định “Tòa án cấp sơ thẩm xác định thiếu người tham gia tố tụng nhưng không ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc giải quyết vụ án, không ảnh hưởng đến quyền lợi của anh S1 nên không cần thiết phải hủy bản án sơ thẩm” là chưa đủ cơ sở.

Bài viết liên quan

Góp ý