1. Giải thích từ ngữ
Sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh được hiểu là việc tạo ra, tái tạo hoặc giả mạo các loại thuốc được sử dụng để điều trị hoặc phòng ngừa bệnh tật, sau đó đưa các sản phẩm giả mạo này vào lưu thông trên thị trường với mục đích mua bán, trao đổi.
2. Tội danh
“Điều 194. Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh
1. Người nào sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Tái phạm nguy hiểm;
d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
đ) Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
e) Buôn bán qua biên giới;
g) Hàng giả tương đương với số lượng của hàng thật hoặc hàng hóa có cùng tính năng kỹ thuật, công dụng trị giá từ 150.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
h) Thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
i) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
k) Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm:
a) Hàng giả tương đương với số lượng của hàng thật hoặc hàng hóa có cùng tính năng kỹ thuật, công dụng trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
b) Thu lợi bất chính từ 500.000.000 đồng đến dưới 2.000.000.000 đồng;
c) Làm chết người;
d) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;
e) Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình:
a) Thu lợi bất chính 2.000.000.000 đồng trở lên;
b) Làm chết 02 người trở lên;
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 122% trở lên;
d) Gây thiệt hại về tài sản 1.500.000.000 đồng trở lên.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
6. Pháp nhân thương mại phạm tội quy định tại Điều này, thì bị phạt như sau:
a) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tiền từ 1.000.000.000 đồng đến 4.000.000.000 đồng;
b) Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c, e, g, h, i và k khoản 2 Điều này, thì bị phạt tiền từ 4.000.000.000 đồng đến 9.000.000.000 đồng;
c) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này, thì bị phạt tiền từ 9.000.000.000 đồng đến 15.000.000.000 đồng;
d) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 4 Điều này, thì bị phạt tiền từ 15.000.000.000 đồng đến 20.000.000.000 đồng hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn từ 01 năm đến 03 năm;
đ) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại Điều 79 của Bộ luật này, thì bị đình chỉ hoạt động vĩnh viễn;
e) Pháp nhân thương mại còn có thể bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng, cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn từ 01 năm đến 03 năm.”
3. Cấu thành tội phạm
3.1. Khách thể của tội phạm
Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc phòng bệnh, thuốc chữa bệnh xâm phạm trật tự quản lý kinh tế mà cụ thể là trật tự của nền sản xuất hàng hóa, lầm mất sự ổn định của thị trường, xâm hại lợi ích và sức khỏe, tính mạng của người tiêu dùng, xâm phạm quyền bảo hộ của các doanh nghiệp, các nhà sản xuất kinh doanh thuốc chữa bệnh, phòng bệnh đúng đắn.
3.2. Mặt khách quan của tội phạm
Sản xuất hàng giả trong trường hợp này là việc thực hiện các công đoạn từ tạo ra, tái tạo hoặc giả mạo thuốc chữa bệnh hoặc thuốc phòng bệnh. Điều này bao gồm việc sản xuất các sản phẩm thuốc không đạt tiêu chuẩn, sử dụng nguyên liệu không đảm bảo hoặc giả mạo bao bì, nhãn mác của các loại thuốc chính hãng.
Hàng giả trong lĩnh vực này có thể là:
- Giả về thành phần: Thuốc có thành phần dược chất không đúng hoặc không đầy đủ so với công bố.
Ví dụ: Một loại thuốc giả được sản xuất với thành phần hoạt chất thấp hơn rất nhiều so với thuốc thật hoặc không chứa hoạt chất như đã công bố.
- Giả về nguồn gốc, xuất xứ: Thuốc được sản xuất ở nơi khác nhưng được gắn mác của một nhà sản xuất uy tín.
Ví dụ: Thuốc được sản xuất ở một cơ sở không có giấy phép và gắn nhãn mác của một hãng dược phẩm nổi tiếng.
- Giả về hình thức: Thuốc có hình thức, màu sắc, kích thước giống thuốc thật nhưng không có tác dụng chữa bệnh, hoặc tác dụng rất hạn chế.
Ví dụ: Viên thuốc có cùng màu sắc và đóng gói giống hệt thuốc thật nhưng không có công dụng hay thậm chí còn có chứa chất có hại.
Buôn bán hàng giả là hành vi trao đổi, mua bán, lưu thông các loại thuốc mà người thực hiện biết rõ hoặc có cơ sở để biết rằng đó là hàng giả. Hành vi này có thể thực hiện dưới nhiều hình thức:
- Bán lẻ: Bán trực tiếp cho người tiêu dùng thông qua các nhà thuốc, cửa hàng dược phẩm hoặc các kênh bán lẻ khác.
Ví dụ: Một nhà thuốc mua và bán các loại thuốc có giá rẻ bất thường như thuốc cân ký từ nguồn không rõ ràng mà không kiểm tra chất lượng.
- Phân phối sỉ: Phân phối thuốc giả đến các đại lý, nhà thuốc khác hoặc các tổ chức y tế.
Ví dụ: Một công ty dược phẩm phân phối số lượng lớn thuốc giả đến các bệnh viện hoặc nhà thuốc trong nước.
Hành vi sản xuất, buôn bán thuốc giả có thể gây ra những hậu quả cực kỳ nghiêm trọng như khiến người bệnh không được điều trị đúng cách, dẫn đến tình trạng bệnh xấu đi, gây biến chứng và thậm chí tử vong. Ngoài ra, việc này còn làm mất lòng tin của người dân vào hệ thống y tế và gây tổn hại lớn cho các doanh nghiệp dược phẩm chân chính.
3.3. Mặt chủ quan của tội phạm
Hình thức lỗi: Tội phạm sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc phòng bệnh, thuốc chữa bệnh có hình thức lỗi là cố ý trực tiếp. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra.
Động cơ, mục đích của tội phạm chủ yếu là vụ lợi. Động cơ, mục đích của tội phạm tuy không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm nhưng việc xác định động cơ, mục đích của cá nhân hay pháp nhân phạm tội có ý nghĩa trong việc quyết định hình phạt.
3.4. Chủ thể của tội phạm
Trong trường hợp chủ thể tội phạm là cá nhân, phải là người có năng lực trách nhiệm hình sự và từ đủ 16 tuổi trở lên.
Trong trường hợp chủ thể của tội phạm là pháp nhân, căn cứ vào Điều 75 Bộ luật Hình sự thì điều kiện truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định:
-Hành vi phạm tội sản xuất, buôn bán hàng giả được thực hiện nhân danh pháp nhân;
- Hành vi phạm tội sản xuất, buôn bán hàng giả được thực hiện vì lợi ích pháp nhân;
- Hành vi phạm tội sản xuất, buôn bán hàng giả được thực hiện có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của pháp nhân.
Trân trọng./.