1. Giải thích từ ngữ
Buộc công chức, viên chức thôi việc hoặc sa thải người lao động trái pháp luật được hiểu là hành vi lạm dụng quyền lực, vi phạm quy định của pháp luật về lao động và quản lý công chức, viên chức, dẫn đến việc chấm dứt quan hệ lao động một cách bất hợp pháp.
2. Tội danh
“Điều 162. Tội buộc công chức, viên chức thôi việc hoặc sa thải người lao động trái pháp luật
1. Người nào vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác mà thực hiện một trong các hành vi sau đây gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:
a) Ra quyết định buộc thôi việc trái pháp luật đối với công chức, viên chức;
b) Sa thải trái pháp luật đối với người lao động;
c) Cưỡng ép, đe dọa buộc công chức, viên chức, người lao động phải thôi việc.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 03 năm:
a) Đối với 02 người trở lên;
b) Đối với phụ nữ mà biết là có thai;
c) Đối với người đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi;
d) Làm người bị buộc thôi việc, người bị sa thải tự sát;
đ) Gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng khác.
3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
3. Cấu thành tội phạm
3.1. Khách thể của tội phạm
Tội phạm này xâm phạm đến quyền và nghĩa vụ lao động, của công dân được Hiến pháp và pháp luật bảo vệ.
3.2. Mặt khách quan của tội phạm
Mặt khác quan của Tội buộc công chức, viên chức thôi việc hoặc sa thải người lao động trái pháp luật được thực hiện thông qua một trong những hành vi sau:
- Thứ nhất, ra quyết định buộc thôi việc trái pháp luật đối với công chức, viên chức: Ra quyết định buộc thôi việc trái pháp luật đối với công chức, viên chức là hành vi của những người có chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn cố ý ra quyết định buộc công chức, viên chức dưới quyền mình phải thôi việc.
- Thứ hai, sa thải trái pháp luật đối với người lao động: Sa thải trái pháp luật là hành vi sa thái không đáp ứng các điều kiện tại Điều 125 Bộ luật lao động năm 2019, do người sử dụng lao động mà cụ thể là người có quyền (như giám đốc, chủ tịch, trưởng phòng tuyển dụng,...) vì vụ lợi, hoặc động cơ cá nhân mà ra quyết định sa thải đối với người lao động.
- Thứ ba, cưỡng ép, đe dọa buộc người lao động, công chức, viên chức phải thôi việc: Đây là hành vi buộc công chức, viên chức, người lao động phải thôi việc trái với ý muốn của họ, hành vi cưỡng ép có thể thực hiện thông qua các thủ đoạn như mua chuộc, dùng lời nói,.. đe dọa có thể thực hiện qua hành động, lời nói.
Hậu quả nguy hiểm cho xã hội của tội phạm là dấu hiệu bắt buộc để định tội. Theo đó, hành vi buộc công chức, viên chức thôi việc hoặc sa thải người lao động trái pháp luật phải dẫn đến hậu quả khiến người đó hoặc gia đình họ lâm vào tình trạng khó khăn hoặc dẫn đến xảy ra đình công thì mới cấu thành tội phạm.
3.3. Mặt chủ quan của tội phạm
Tội phạm được thực hiện do lỗi cố ý, có thể là lỗi cố ý trực tiếp hoặc cố ý giám tiếp. Tức là người phạm tội nhận thức rõ hành vi buộc người lao động, cán bộ, công chức thôi việc là trái pháp luật, thấy trước được hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xẩy ra hoặc nhận thức rõ hành vi của mình là trái pháp luật, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xẩy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xẩy ra.
Người phạm tội buộc người lao động, cán bộ, công chức thôi việc trái pháp luật có nhiều động cơ khác nhau, Điều 162 Bộ luật Hình sự quy định hai động cơ là vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác; động cơ không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này, nên việc xác định động cơ phạm tội của người phạm tội chỉ có ý nghĩa trong việc quyết định hình phạt.
Mục đích của người phạm tội là mong muốn người lao động, cán bộ, công chức phải thôi việc.
3.4. Chủ thể của tội phạm
Người phạm tội này là chủ thể đặc biệt,phải là người có thẩm quyền trong việc buộc công chức, viên chức thôi việc hoặc sa thải người lao động. Đó thường là những người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức tư nhân, các doanh nghiệp,… có quyền tuyển dụng và cho thôi việc người lao động như thủ trưởng cơ quan, phụ trách tổ chức hoặc người chủ tư nhân thuê mướn nhân công.
Đương nhiên đây phải là người từ đủ 16 tuổi trở lên và có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự (năng lực nhận thức và năng lực làm chủ hành vi) theo quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự.
Trân trọng./.