1. Giải thích từ ngữ
Xâm phạm quyền của công dân về bầu cử, ứng cử hoặc biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân được hiểu là hành vi vi phạm pháp luật, can thiệp vào quyền và tự do dân chủ của công dân trong các hoạt động chính trị quan trọng như bầu cử, ứng cử vào các cơ quan đại diện của Nhà nước hoặc tham gia biểu quyết trong các cuộc trưng cầu ý dân.
2. Tội danh
“Điều 160. Tội xâm phạm quyền của công dân về bầu cử, ứng cử hoặc biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân
1. Người nào lừa gạt, mua chuộc, cưỡng ép hoặc dùng thủ đoạn khác cản trở công dân thực hiện quyền bầu cử, quyền ứng cử hoặc quyền biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 02 năm:
a) Có tổ chức;
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
c) Dẫn đến hoãn ngày bầu cử, bầu cử lại hoặc hoãn việc trưng cầu ý dân.
3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
3. Cấu thành tội phạm
3.1. Khách thể của tội phạm
Hành vi xâm phạm quyền bầu cử, quyền ứng cử hoặc quyền biểu quyết khi nhà nước trưng cầu ý dân của công dân là bằng những hình thức khác nhau làm cho quyền bầu cử, ứng cử, quyền biểu quyết của người dân không được thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ, không đúng với ý chí của họ.
Hiến pháp năm 2014 quy định tại Điều 27 và Điều 29 như sau:
“Điều 27.
Công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân. Việc thực hiện các quyền này do luật định.”
“Điều 29.
Công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân.”
Quyền bầu cử, quyền ứng cử của công dân còn được cụ thể hoá bởi những quy định của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2015, cũng như các quy định cụ thể về việc tổ chức bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Quyền biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân được quy định tại Luật Trưng cầu ý dân năm 2015.
3.2. Mặt khách quan của tội phạm
Mặt khách quan của tội phạm này được thể hiện qua các hành vi như: Lừa gạt, mua chuộc, cưỡng ép hoặc dùng thủ đoạn khác cản trở công dân thực hiện quyền bầu cử, quyền ứng cử hoặc quyền biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân. Cụ thể:
- Thứ nhất, hành vi lừa gạt:
+ Dùng thủ đoạn gian dối, đưa ra thông tin sai sự thật (sai hoàn toàn, không đầy đủ) làm cho công dân tưởng giả là thật mà không thực hiện quyền của mình.
+ Ví dụ: A nói với B là ngày 23/5 chỉ bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh, Hội đồng nhân dân huyện còn bầu cử đại biểu xã thì diễn ra vào ngày khác, cùng với lời nói A đưa cho B xem tài liệu photo (do A đã chỉnh sửa), từ đó B không đi bầu cử vì chỉ quan tâm đến đại biểu hội đồng nhân dân xã.
- Thứ hai, hành vi mua chuộc: Dùng tiền hoặc lợi ích vật chất, phi vật chất để lôi kéo người khác làm theo ý mình (không bầu cử, không ứng cử).
- Thứ ba, hành vi cưỡng ép:
+ Dùng quyền, dùng sức, vũ lực đối với người khác hoặc đe dọa sẽ dùng các biện pháp mạnh ngăn cản người khác thực hiện quyền bầu cử, ứng cử…(cắt lương, thưởng, đuổi việc, đánh đập…).
+ Ví dụ: Thấy B đi bầu cử ngày 23/5, A (chủ xưởng) bảo B ở nhà, nếu B đi bầu cử thì A sẽ đuổi việc B, dẫn đến B không dám đi bầu cử.
- Thứ tư, dùng thủ đoạn khác cản trở:
+ Không thuộc các trường hợp lừa gạt, cưỡng ép, mua chuộc.
+ Ví dụ: biết B đi ứng cử ngày 23/5, A đã cho B uống thuốc ngủ, nên B không thể đến địa điểm ứng cử.
Hậu quả là công dân không được thực hiện các quyền bầu cử, ứng cử hoặc biểu quyết theo ý chí của mình khi Nhà nước trưng cầu ý dân.
3.3. Mặt chủ quan của tội phạm
Tội xâm phạm được thực hiện do lỗi cố ý, có thể là cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp.
Người phạm tội xâm phạm quyền bầu cử, quyền ứng cử của người khác với nhiều động cơ khác nhau; động cơ không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này, nên việc xác định động cơ phạm tội của người phạm tội chỉ có ý nghĩa trong việc quyết định hình phạt.
3.4. Chủ thể của tội phạm
Theo quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự thì người phạm tội này là công dân Việt Nam; từ đủ 16 tuổi trở lên và có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự (năng lực nhận thức và năng lực làm chủ hành vi).
Trân trọng./.