TỘI XÂM PHẠM QUYỀN TỰ DO TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO CỦA NGƯỜI KHÁC

(Theo Điều 164 Bộ luật Hình sự năm 2015)

1. Giải thích từ ngữ

Xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người khác được hiểu là hành vi can thiệp, cản trở hoặc ngăn cấm quyền của cá nhân hoặc nhóm người trong việc theo đuổi hoặc thực hiện tín ngưỡng, tôn giáo của mình một cách tự do và hợp pháp.

2. Tội danh

“Điều 164. Tội xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người khác

1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác ngăn cản hoặc ép buộc người khác thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm:

a) Có tổ chức;

b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

c) Phạm tội 02 lần trở lên;

d) Dẫn đến biểu tình;

đ) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.

3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”

3. Cấu thành tội phạm

3.1. Khách thể của tội phạm

Tội phạm này xâm phạm đến quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo của người. Đây là quyền tự do, dân chủ của công dân được Hiến pháp và pháp luật bảo vệ.

3.2. Mặt khách quan của tội phạm

Mặt khách quan của tội phạm thể hiện ở hành vi nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác ngăn cản hoặc ép buộc người khác thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Trong đó:

- Dùng vũ lực:

+ Hành vi dùng vũ lực trong tội xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người khác cũng tương tự với hành vi dùng vũ lực ở một số tội phạm khác mà người phạm tội có dùng vũ lực nhưng ở tội xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người khác, hành vi dùng vũ lực là nhằm ngăn cản, ép buộc người khác thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào.

+ Hành vi này, thông thường là làm thế nào để buộc nạn nhân phải thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo theo ý muốn của người phạm tội như: đánh, đấm, trói,...

+ Những hành vi này chủ yếu làm tê liệt sự kháng cự của người bị hại để người phạm tội thực hiện được việc ngăn cản hoặc ép buộc nạn nhân thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào.

- Đe doạ dùng vũ lực:

+ Đe doạ dùng vũ lực là hành vi của một người dùng lời nói hoặc hành động uy hiếp tinh thần của người khác, làm cho người bị đe dọa sợ hãi như: doạ giết, dọa đánh, dọa bắn... làm cho người bị hại sợ dẫn đến không thể thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào theo ý muốn của nạn nhân.

+ Người phạm tội có thể đe dọa dùng vũ lực trực tiếp với nạn nhân như dọa giết nạn nhân,... nhưng cũng có thể đe dọa sẽ dùng vũ lực với người thân thích, người mà nạn nhân quan tâm như đe dọa sẽ giết con gái của nạn nhân nếu nạn nhân ko làm theo ý muốn của người phạm tội,...

- Đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính:

+ Đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm là trước đó đã có lần xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, đã bị xử lý bằng một trong những hình thức kỷ luật theo quy định của Nhà nước hoặc theo quy định trong Điều lệ của tổ chức tôn giáo và chưa hết thời hạn được xoá kỷ luật, nay lại có hành vi xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người khác. Nếu trước đó người phạm tội tuy có bị xử lý kỷ luật, nhưng về hành vi khác không phải là hành vi xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người khác thì cũng không cấu thành tội phạm này.

+ Đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm là trước đó đã có lần xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người khác, đã bị xử phạt hành chính bằng một trong những hình thức xử phạt hành chính hoặc bằng một trong những hình thức xử lý hành chính khác theo quy định của Luật Xử phạt vi phạm hành chính và chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử lý hành chính, nay lại có hành vi xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người khác. Nếu trước đó người phạm tội tuy có bị xử lý hành chính, nhưng về hành vi khác không phải là hành vi xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người khác thì cũng không cấu thành tội phạm này.

3.3. Mặt chủ quan của tội phạm

Chủ thể thực hiện tội phạm với lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội hoàn toàn nhận thức được hậu quả chia tách người dưới 01 tuổi khỏi cha mẹ của họ nhưng vẫn mong muốn hậu quả đó xảy ra.

Động cơ phạm tội có thể rất nhiều, nhưng chủ yếu là do quan niệm trọng nam khinh nữ hoặc như con sinh ra bị tàn tật, có dị tật bẩm sinh hoặc mắc các bệnh như bệnh tim bẩm sinh, hở hàm ếch,…

Mục đích là đánh tráo trẻ sơ sinh này để đổi lấy một đứa trẻ sơ sinh khác theo ý muốn của người phạm tội. 

3.4. Chủ thể của tội phạm

Theo quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự, người phạm tội này có thể là bất cứ ai từ đủ 16 tuổi trở lên và có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự (năng lực nhận thức và năng lực làm chủ hành vi).

Trên thực tế người phạm tội này thường là người có trách nhiệm hoặc có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn để ngăn cản hoặc ép buộc người khác thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào đó.

Trân trọng./.

Góp ý