TỘI QUẤY NHIỄU NHÂN DÂN

(Theo Điều 415 Bộ luật Hình sự năm 2015)

1. Giải thích từ ngữ

Quấy nhiễu nhân dân được hiểu là hành viđòi hỏi, yêu sách, quấy rối, tạo ra sự phiền toái, gây khó khăn, cản trở đối với cuộc sống bình thường của nhân dân hoặc xâm phạm đến sức khỏe, nhân phẩm, danh dự, tài sản của họ.

2. Tội danh

Điều 415. Tội quấy nhiễu nhân dân

1. Người nào có hành vi quấy nhiễu nhân dân đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm hoặc gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

a) Là chỉ huy hoặc sĩ quan;

b) Lôi kéo người khác phạm tội;

c) Trong khu vực có chiến sự;

d) Trong khu vực đã có lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp;

đ) Gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.

3. Cấu thành tội phạm

3.1. Khách thể của tội phạm

Tội quấy nhiễu nhân dân không chỉ là một hành động xâm phạm quan hệ đoàn kết quân dân, mà còn là sự đe dọa đến bản chất và truyền thống cách mạng của quân đội. Hành vi này không chỉ gây thiệt hại về tài sản, mà còn xâm phạm danh dự và nhân phẩm của công dân, tạo ra ảnh hưởng đến trật tự và an ninh xã hội. Do đó, đối tượng của tội phạm không chỉ là mối quan hệ đoàn kết quân dân mà còn là những giá trị truyền thống cách mạng của quân đội.

3.2. Mặt khách quan của tội phạm

Hành vi phạm tội:

  • Gây rối trật tự công cộng: Hành vi này bao gồm việc làm ồn ào, gây náo loạn, cản trở hoạt động bình thường của cộng đồng hoặc gây mất trật tự trong các khu vực công cộng như đường phố, công viên, khu dân cư.
  • Xâm phạm quyền lợi cá nhân: Đây là các hành vi như hành hung, đe dọa, hoặc quấy rối tinh thần đối với người khác, làm ảnh hưởng đến sự an toàn và yên tĩnh của cá nhân.
  • Vi phạm quy định pháp luật: Các hành vi như cản trở hoạt động hợp pháp, phá hoại tài sản, hoặc làm rối loạn các hoạt động xã hội, chính trị.

Hậu quả: Sự phiền toái, rắc rối hoặc thiệt hại về tinh thần và vật chất cho người dân. Ví dụ, việc gây ồn ào có thể làm giảm chất lượng cuộc sống, gây stress, mất ngủ, hoặc làm mất sự tập trung. Bên cạnh đó, việc quấy nhiễu có thể dẫn đến sự xáo trộn trong cộng đồng, giảm hiệu quả của các hoạt động công cộng, và làm suy yếu trật tự xã hội, ảnh hưởng đến an ninh và ổn định của khu vực.

Tội phạm hoàn thành từ thời điểm xảy ra hậu quả nghiêm trọng hoặc trong trường hợp khi trước đó người vi phạm đã bị xử lý kỷ luật về hành vi quấy nhiễu nhân dân theo quy định tại Điều 32 Thông tư 143/2023/TT-BQP quy định về việc Quấy nhiễu Nhân dân:

Điều 32. Quấy nhiễu Nhân dân

1. Khi tiếp xúc với nhân dân mà có hành vi đòi hỏi, yêu sách, quấy nhiễu, gây phiền hà, khó khăn, cản trở sinh hoạt bình thường của Nhân dân hoặc xâm phạm đến sức khỏe, nhân phẩm, danh dự, tài sản của Nhân dân thì bị kỷ luật từ khiển trách, cảnh cáo, hạ bậc lương đến giáng chức, cách chức.

2. Nếu vi phạm một trong các trường hợp sau thì bị kỷ luật từ giáng cấp bậc quân hàm, tước quân hàm sĩ quan đến tước danh hiệu quân nhân, buộc thôi việc

a) Là chỉ huy;

b) Lôi kéo người khác tham gia;

c) Trong khu vực có chiến sự hoặc tình trạng khẩn cấp;

d) Gây ảnh hưởng đến uy tín, danh dự của Quân đội.”

3.3. Mặt chủ quan của tội phạm

Tội phạm được thực hiện do lỗi cố ý. Người phạm tội nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước được hậu quả do hành vi của mình gây ra, mong muốn hoặc có ý thức để mặc cho hậu quả đó xảy ra.

3.4. Chủ thể của tội phạm

Chủ thể của tội phạm này là chủ thể đặc biệt, chỉ những người được quy định tại Điều 392 Bộ luật Hình sự mới có thể thực hiện tội phạm, bao gồm:

Điều 392. Những người phải chịu trách nhiệm hình sự về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân

1. Quân nhân tại ngũ, công nhân, viên chức quốc phòng.

2. Quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện.

3. Dân quân, tự vệ trong thời gian phối thuộc với quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu.

4. Công dân được trưng tập vào phục vụ trong quân đội.”

Ngoài ra, người phạm tội phải đáp ứng đủ điều kiện về tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự, theo Điều 12 Bộ luật Hình sự, chủ thể của tội này là người từ đủ 16 tuổi trở lên.

Trân trọng./.

Góp ý