Tổng hợp 10 bản án huỷ, sửa về tội "Cướp tài sản"

MỤC LỤC

1. Bản án hình sự phúc thẩm số 156/2023/HS-PT ngày 14/9/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang xét xử về tội “Cướp tài sản” đối với các bị cáo Dương Thị H và Dương Công Đ do có kháng cáo của các bị cáo Dương Thị H và Dương Công Đ

2. Bản án hình sự phúc thẩm số 21/2024/HS-PT ngày 27/02/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hoà xét xử về tội “Cướp tài sản” đối với bị cáo Nguyễn Ngọc S và các bị cáo khác do có kháng cáo của các bị cáo

3. Bản án hình sự phúc thẩm số 125/2024/HS-PT ngày 02/8/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang xét xử về tội “Cướp tài sản” đối với bị cáo Huỳnh Thanh V và đồng phạm do có kháng cáo của các bị cáo

4. Bản án hình sự phúc thẩm số 38/2024/HS-PT ngày 30/01/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử về các tội “Bắt, giữ người trái pháp luật” và tội “Cướp tài sản” đối với bị cáo Mai Hồng L và đồng phạm do có kháng cáo của bị cáo Mai Hồng L và bị cáo Lê Thị T

5. Bản án hình sự phúc thẩm số 159/2019/HS-PT ngày 11/12/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An xét xử về tội “Cướp tài sản” đối với các bị cáo Nguyễn Hữu C, Nguyễn Hữu T và Lê Hoàng P do có kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Hữu C, Nguyễn Hữu T và Lê Hoàng P

6. Bản án hình sự phúc thẩm số 108/2024/HS-PT ngày 17/6/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang xét xử về tội “Cướp tài sản” đối với bị cáo Trương Thị Mỹ H do có kháng cáo của bị cáo Trương Thị Mỹ H và bị hại

7. Bản án hình sự phúc thẩm số 78/2024/HS-PT ngày 16/11/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình xét xử về tội “Cướp tài sản” đối với bị cáo Phạm Văn D do có kháng cáo của bị cáo Phạm Văn D

8. Bản án hình sự phúc thẩm số 113/2024/HS-PT ngày 23/8/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xét xử về tội “Cướp tài sản” đối với các bị cáo Phạm Thị Nhật L và Ngô Minh Đ do có kháng cáo của các bị cáo Phạm Thị Nhật L và Ngô Minh Đ

9. Bản án hình sự phúc thẩm số 125/2024/HS-PT ngày 24/9/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hoà xét xử về tội “Cướp tài sản” đối với bị cáo Nguyễn Ngọc S và các bị cáo khác do có kháng cáo của bị cáo bị cáo

10. Bản án hình sự phúc thẩm số 26/2024/HS-PT ngày 08/3/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An xét xử về tội “Cướp tài sản” đối với các bị cáo Đinh Văn T và Nguyễn Lệ Mai C do có kháng cáo của các bị cáo Đinh Văn T và Nguyễn Lệ Mai C

 

1. Bản án hình sự phúc thẩm số 156/2023/HS-PT ngày 14/9/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang xét xử về tội “Cướp tài sản” đối với các bị cáo Dương Thị H và Dương Công Đ do có kháng cáo của các bị cáo Dương Thị H và Dương Công Đ

Nội dung hủy án:

(i) Không tiến hành thực nghiệm điều tra để xác định vị trí, khoảng cách giữa nơi sự việc xẩy ra khi Đ, H và T1 nói truyện, to tiếng với nhau dẫn đến xô sát với vị trí những người làm chứng (nhân viên của quán C1) đứng, làm việc, phachế đề uống, vị trí người làm chứng là khách ngồi uống nước để xem những người này có nghe rõ các nội dung trao đổi giữa các bị cáo và bị hại không? Có nhìn rõ những diễn biến hành vi khi các bị cáo thực hiện đối với bị hại không?

(ii) Không tiến hành ghi âm, ghi hinh việc hỏi cung bị can, trong khi các bị cáo không thừa nhận hành vi “cướp tài sản” ngay từ khi bị khởi tố, điều tra.

(iii) Quá trình điều tra, Điều tra viên tiến hành xem xét dấu vết trên thân thể của Hoàng Minh T1 (BL 105) làm căn cứ để xác định T1 bị các thương tích do bị cáo H đánh trước khi trả tiền; Biên bản làm việc về việc trích xuất dữ liệu (BL618a); Biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ (BL6186) đều thể hiện có sự chứng kiến của anh Nguyễn Văn M1, sinh năm 1979 trú tại tổ dân phố T, thị trấn B, huyện V, tỉnh Bắc Giang nhưng chữ ký của anh M1 tại các tài liệu này là khác nhau. Qua làm việc với anh Nguyễn Văn M1, anh M1 khẳng định không tham gia chứng kiến các hoạt động điều tra trên.

Biên bản xem xét dấu vết trên thân thể T1 (BL 105) không thể hiện có chụp ảnh các dấu vết được xem xét nhưng phía sau là các bản ảnh chụp các dấu vết trên thân thể anh T1 cũng không thể hiện được chụp vào ngày giờ nào, thông qua hoạt động điều tra nào (BL 106, 107, 108, 109)?

(iv) Tại phiên tòa phúc thẩm, Điều tra viên thực hiện các hoạt động này khẳng định không tiến hành thực nghiệm điều tra nội dung trên, không tiến hành ghi âm, ghi hình do các bị cáo từ chối, một số vụ án khác do Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện V tiến hành điều tra cùng thời điểm điều tra vụ án này vẫn được Cơ + điều tra Công an huyện V ghi âm, ghi hình. Về hoạt động điều tra tại các BL 105, 618a, 618b đều do anh Nguyễn Văn M1 có lý lịch trên đều tham gia chứng kiến và là một người, tuy nhiên chữ ký của anh M1 tại các biên bản này Điều tra viên không nhớ được và sẽ xem xét lại.

(v) Việc trích xuất dữ liệu là 06 đoạn clip tại quán C1 (trước khi trích xuất điều tra viên, những người tham gia tiến hành mở camera, xem lại các clip sau đó trích xuất ra đĩa DVD để phục vụ điều tra). Các đoạn clip rất dài nhưng tất cả các thủ tục tiến hành chỉ trong 05 phút liệu có thực hiện được không? không thu giữ đầu thu của camera là chứng cứ gốc lưu giữ các clip để phục vụ điều tra?

(vi) BL 203, 205 thể hiện trong các ngày 16/11/2021 và 28/12/2021 ĐTV mở các clip cho T1, D3 xem để nhận diện ... trong khi những clip này đang được niêm phong, không có biên bản mở niêm phong. Đến ngày 15/02/2022 (BL 207) mới mở niêm phong giao cho điều tra viên Thân Văn M2 để phục vụ công tác điều tra?

(vii) Ngày 07/11/2021 ĐTV M2 tiến hành làm việc với M, Chu Bá H4 kiểm tra đầu thu camera quán và sử dụng thiết bị trực tiếp trích xuất các đoạn video có hình ảnh sự việc ngày 29/10/2021 phục vụ điều tra (BL610b);

Trong khi ngày 01/11/21 (BL 198, 199) Chu Bá H4 đã giao nộp 01 đĩa DVD chứa các đoạn clip trích xuất từ camera an ninh quán.

Vậy Cơ quan điều tra Công an huyện V QĐ trưng cầu giám định clip của DVD nào (BL61)?

(viii) QĐ trưng cầu giám định (BL 61) trưng cầu giám định 06 file đoạn clip trong đĩa DVD (gồm file: IMG_8278, IMG_8281, IMG 8283, IMG 8284, IMG_8285, IMG_8286 và 01 USB có chứa các đoạn clip do Dương Công Đ cung cấp nhưng KL giám định (BL65) lại chỉ kết luận 03 file gồm IMG_8278, IMG_8281, IMG_8284? Các file khác còn lại và các file trong USB không kết luận, không nêu lý do và không có yêu cầu giám định lần nào khác?

(ix) BL 506 kiểm tra USB Hoài giao nộp, Biên bản có ghi trích xuất video phục vụ điều tra nhưng hồ sơ không có tài liệu nào thể hiện có hình ảnh trích xuất video này?

(x) Quyết định trưng cầu giám định số 452/QĐ-CSĐT ngày 23/8/2022 (BL610a) chỉ trưng cầu giám định đối với đĩa DVD được sao từ USB do bị cáo H, Đ cung cấp mà không tiến hành trưng cầu giám định đối với các USB này là chứng cứ gốc chứa đựng các nội dung sự việc trả nợ.

(xi) Bản cáo trạng số 192/CT-VKS ngày 05/10/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Việt Yên kết luận “Đ gọi điện cho H đến quán để giải quyết việc nợ tiền, nội dung Đ yêu cầu T1 phải nhớ, T1 đề nghị H ra Ngân hàng sao kê đối chiếu, H bảo T1 tự đi ra Ngân hàng sao kê, nếu T1 không nhớ sẽ không cho ra khỏi quán” “nội dung H cho T1 vay 200tr mà không phải là 300tr và đã trả hết” không có tài liệu nào trong hồ sơ thể hiện các nội dung này. Vậy cần làm rõ căn cứ nào để Viện kiểm sát nhân dân huyện Việt Yên kết luận các nội dung trên.

(xii) Quá trình điều tra tại cấp sơ thẩm chưa làm rõ được ý thức chủ quan của các Bị cáo khi gặp, trao đổi với T1 và trong suốt quá trình diễn biến sự việc đến trước khi anh Tiêu Văn H3 đến trả tiền thay cho T1 nên cần điều tra làm rõ vấn đề này để làm căn cứ xem xét hành vi phạm tội của các bị cáo.

(xiii) Tại phiên tòa phúc thẩm ngày 29/8/2023, anh Nhữ Xuân T9 và bị cáo khẳng định trong khoảng thời gian diễn ra sự việc anh T1 có hỏi vay và được anh T9 chuyển khoản cho anh T1 vay 60.000.000 đồng để trả H nhưng sau đó cùng ngày tú đã chuyển khoản trả lại cho anh T9 số tiền này mà không trả cho bị cáo H. Vì vậy cần điều tra làm rõ thời điểm anh T9 chuyển tiền cho anh T1 vay và thời điểm anh T1 chuyển trả lại cho anh T9 số tiền trên (sao kê tài khoản ngân hàng của anh T9 và T1 để xác định).

(xiv) Đối với HĐXX sơ thẩm khi tiến hành xét xử và ban hành Bản án sơ thẩm số 66/2023/HS-ST ngày 24/4/2023 của TAND huyện Việt Yên không đưa một số người chứng kiến quan trọng vào tham gia tố tụng để triệu tập đến phiên tòa làm rõ các tình tiết của vụ án; không ghi đầy đủ lý lịch các bị cáo có mấy anh chị em ruột, không ghi địa chỉ cư trú của những người làm chứng trong Bản án là vi phạm, thiếu sót, tuy nhiên những vi phạm này không nghiêm trọng nhưng Tòa án cấp sơ thẩm cần nghiêm túc rút kinh nghiệm.

2. Bản án hình sự phúc thẩm số 21/2024/HS-PT ngày 27/02/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hoà xét xử về tội “Cướp tài sản” đối với bị cáo Nguyễn Ngọc S và các bị cáo khác do có kháng cáo của các bị cáo

Nội dung hủy án 

(i) Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Khánh Hòa đề nghị hủy bản án sơ thẩm vì các lý do là vi phạm tố tụng trong giai đoạn nghị án, đồng thời bản án sơ thẩm ghi không đúng việc bào chữa của luật sư Lê Văn T1 đối với các bị cáo.

Hội đồng xét xử nhận thấy, biên bản nghị án sơ thẩm không thể hiện việc nghị án về mức hình phạt đối với các bị cáo, trình tự biểu quyết cũng chưa thực hiện đúng qui định Điều 326 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

(ii) Về việc bào chữa của luật sư Lê Văn T1 đối với các bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy, trong hồ sơ vụ án thể hiện 03 bị cáo có mời luật sư Lê Văn T1 bào chữa. Theo biên bản phiên tòa sơ thẩm, luật sư Lê Văn T1 đã thực hiện việc bào chữa cho 03 bị cáo. Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 65/2023/HS-ST ngày 18 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân thị xã Ninh Hòa, Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm đã nhận định việc bào chữa của luật sư đối với 03 bị cáo. Như vậy, việc bản án sơ thẩm chỉ ghi luật sư Lê Văn T1 bào chữa cho bị cáo Nguyễn Ngọc S là sơ sót do lỗi đánh máy, trong trường hợp này cần phải ban hành quyết định sửa chữa, bổ sung bản án theo qui định tại Điều 261 Bộ luật Tố tụng Hình sự, cấp sơ thẩm cần rút kinh nghiệm.

3. Bản án hình sự phúc thẩm số 125/2024/HS-PT ngày 02/8/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang xét xử về tội “Cướp tài sản” đối với bị cáo Huỳnh Thanh V và đồng phạm do có kháng cáo của các bị cáo

Nội dung hủy án 

(i) Hội đồng xét xử xét thấy, khi nhóm của bị cáo Q chạy vỏ máy đến vị trí ông C2 đang cào sò, xảy ra cự cãi qua lại, sau đó ông C2 bỏ chạy, lúc này T2 ở trên vỏ của ông C2 yêu cầu ông C2 dừng nhưng ông C2 không dừng, T2 đã dùng cây kéo (lấy trên vỏ của ông C2) chĩa mũi kéo về phía ông C2 để hù dọa, kêu ông C2 tắt máy, ông C2 sợ bị đâm nên đã tắt máy dừng vỏ lại, tạo điều kiện cho các bị cáo Q1, Q vừa chạy vỏ tới cặp bên nhảy sang vỏ của ông C2 lấy chạc cào. Ngoài ra, khi ra đuổi ông C2 thì trên vỏ máy của nhóm bị cáo Q có một số người cầm cây gỗ chạy rượt theo vỏ máy của ông C2. Như vậy, xét về tương quan lực lượng, nhóm của các bị cáo có nhiều người, một số người có cầm hung khí rượt theo, trong đó bị cáo T2 trực tiếp cầm kéo đe dọa ông C2, uy hiếp tinh thần làm cho ông C2 không thể chống cự lại, nhằm chiếm đoạt tài sản của ông C2, nên hành vi của các bị cáo phải được điều tra, truy tố, xét xử theo quy định tại điểm d (Sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác) khoản 2 Điều 168 Bộ luật hình sự mới phù hợp. Việc cấp sơ thẩm điều tra, truy tố và xét xử các bị cáo theo quy định tại khoản 1 Điều 168 Bộ luật hình sự là không đúng quy định của pháp luật.

(ii) Đối với việc xác định vị trí của bị hại cào sò và vị trí nơi các bị cáo thực hiện hành vi có nằm trong phạm vi quản lý của các bị cáo V, B hay không. Theo Công văn số 36/NNPTNT ngày 09/11/2023 của Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn - Ủy ban nhân dân huyện A: Khu vực từ cột mốc 500m trở vào kè chắn sóng, đai rừng hiện hữu không có cho thuê bất kỳ một cá nhân, tổ chức nào để nuôi trồng thủy sản. Căn cứ Biên bản khám nghiệm hiện trường, sơ đồ hiện trường thì vị trí xảy ra vụ cướp tài sản cách kè chắn sóng là 300m. Như vậy, vị trí các bị cáo thực hiện hành vi nằm ngoài phạm vi mà bị cáo B, V được Nhà nước cho thuê. Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo B khai rằng, bị cáo được cho thuê nuôi trồng thủy sản cả phần mặt nước biển từ 500m trở vào kè chắn sóng và được phòng Tài nguyên môi trường huyện A cho thuê, chứ không phải phòng Nông nghiệp và phát triển nông thôn cho thuê. Do đó, quá trình điều tra lại, cấp sơ thẩm cũng cần làm rõ thêm vấn đề này.

(iii) Đối với kháng cáo kêu oan của các bị cáo V, B sẽ được xem xét khi vụ án được điều tra, truy tố, xét xử lại. Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo V, B đều khẳng định việc nhóm bị cáo Q thực hiện hành vi lấy chạc cào của bị hại là do sự chỉ đạo của hai bị cáo V, B, nếu hai bị cáo không chỉ đạo thì nhóm bị cáo Q sẽ không thực hiện. Ngoài ra, qúa trình điều tra lại, cấp sơ thẩm cần làm rõ khi chỉ đạo nhóm bị cáo Q lấy chạc cào của bị hại thì bị cáo B, V có yêu cầu nhóm bị cáo Q dùng phương tiện, thủ đoạn nào để thực hiện hay không, từ đó xem xét, đánh giá mức độ thực hiện hành vi của B, V trong vụ án.

4. Bản án hình sự phúc thẩm số 38/2024/HS-PT ngày 30/01/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử về các tội “Bắt, giữ người trái pháp luật” và tội “Cướp tài sản” đối với bị cáo Mai Hồng L và đồng phạm do có kháng cáo của bị cáo Mai Hồng L và bị cáo Lê Thị T

Nội dung hủy án 

(i) Như vậy, Trần Văn H bị Huỳnh Văn V, Nguyễn Hoàng D bắt giữ từ lúc 23 giờ ngày 18/01/2023 tại Công trình của Dương Hoàng M, số M đường p, quận G và đến 01 giờ ngày 19/01/2023 thì đưa về giữ tại nhà của Lê Thị T, số A ấp T, xã B, huyện H. Nhưng các Cơ quan tố tụng hình sự cấp sơ thẩm xác định Trần Văn H bị bắt giữ từ lúc 01 giờ ngày 19/01/2023 đến 12 giờ ngày 20/01/2023 và nơi giữ tại nhà của Lê Thị T, số A ấp T, xã B, huyện H là không chính xác. Do bỏ lọt thời gian mà các bị cáo bắt giữ tại Công trình của Dương Hoàng M nên Cơ quan điều tra đã không điều tra, làm rõ mục đích Dương Hoàng M gọi Trần Văn H đến là giải quyết việc thi công Công trình bị chậm trễ hay là tìm cớ gọi H tới để giúp Trần Văn D bắt giữ H để đòi nợ, để xác định Dương Hoàng M có đồng phạm với D, L, T và V về hành vi “Bắt giữ người trái pháp luật” hay không. Bỡi lẽ, khi Trần Văn H đến công trình thì Dương Hoàng M không nói gì về việc H thi công công trình bị chậm trễ, mà để mặc cho Huỳnh Văn V và Mạnh tự do đóng cửa công trình và bắt giữ H. Khi Trần Văn H hỏi Minh lý do bị V bắt giữ thì Minh còn nói “Đây là thợ của D, anh cứ đứng yên đó cho tôi”. Mặt khác, sau khi Công an Phường 3 đến giải quyết, xác định đây là việc dân sự, nhưng sau khi Công an ra về thì Minh cũng để mặc cho Nguyễn Hoàng D, Lê Thị T và Mai Hồng L tự do đánh H và giữ H tại đây cho đến khi H tự trốn thoát ra khỏi công trình.

(ii) Theo lời khai của ông Lê Bật Cường tại Cơ quan điều tra (BL 209, 210) thì ông biết các bị cáo Nguyễn Hoàng D, Mai Hồng L và Lê Thị T đưa Trần Văn H về giữ tại căn nhà số A ấp T, xã B, huyện H là nơi mà ông đang cư trú, để gọi gia đình H trả tiền nợ cho D và L. Tại Cơ quan điều tra, Trần Văn H đã khai: Trong thời gian bị giữ tại căn nhà trên thì những người tham gia canh giữ H gồm có Mai Hồng L, Lê Thị T và ông Lê Bật C (BL từ số 163 đến số 165), nhưng Cơ quan điều tra không thu thập chứng cứ để xác định căn nhà số A ấp T, xã B, huyện H do ông C hay ai đứng ra thuê và không tiến hành đối chất giữa bị hại với ông Lê Bật C về việc ông C có hành vi tham gia canh giữ H tại đây hay không.

(iii) Căn cứ lời khai của Trần Văn H tại Cơ quan điều tra (BL số 165) và các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án có căn cứ xác định: Lúc bị bắt giữ tại công trình số M đường P, quận G thì bị cáo Lê Thị T có hành vi giựt lấy chiếc điện thoại của H mang về nhà cất giữ. Sau khi vụ án được phát hiện thì Cơ quan điều tra mới yêu cầu bị cáo T giao nộp chiếc điện thoại mà bị cáo đã giựt lấy của H cho Công an xử lý. Tại phiên tòa phúc thẩm, sau khi đối chất với Trần Văn H thì bị cáo Lê Thị T cũng thừa nhận đã có hành vi giựt lấy chiếc điện thoại của H trong lúc H bị D, L và V bắt giữ tại công trình và đem chiếc điện thoại về nhà cất giữ. Hành vi trên của bị cáo Lê Thị T và đồng phạm có dấu hiệu của tội “Cướp tài sản”, đối với chiếc điện thoại của H, nhưng Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát cấp sơ thẩm không điều tra dấu hiệu phạm tội trên là bỏ lọt hành vi phạm tội.

Như vậy cấp sơ thẩm chưa điều tra, kết luận dấu hiệu phạm tội của Dương Hoàng M, Lê Bật C và bỏ lọt hành vi của các bị cáo cướp chiếc điện thoại của bị hại như đã nêu tại phần [2]. Do đó, căn cứ điểm a, b khoản 1 Điều 358 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, hủy bản án sơ thẩm, giao hồ sơ về cấp sơ thẩm để điều tra, truy tố, xét xử lại vụ án.

5. Bản án hình sự phúc thẩm số 159/2019/HS-PT ngày 11/12/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An xét xử về tội “Cướp tài sản” đối với các bị cáo Nguyễn Hữu C, Nguyễn Hữu T và Lê Hoàng P do có kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Hữu C, Nguyễn Hữu T và Lê Hoàng P

Nội dung hủy án 

(i) Bị hại Hoàng Ngọc V1 bị chiếm đoạt số tiền là bao nhiêu, lời khai của các bị hại với bị cáo mâu thuẫn với nhau, cụ thể: Biên bản tiếp nhận nguồn tin về tội phạm, ông V1 tố giác bị cướp số tiền 71.000.000 đồng, bà T1 28.000.000 đồng cùng 01 xe mô tô biển số 59B1-588.80; Đơn tố giác tội phạm, ông V1 trình bày mất số tiền gần 60.000.000 đồng; Biên bản ghi lời khai, ông V1 khai bị chiếm đoạt tổng cộng 71.000.000 đồng, gồm 66.000.000 đồng tiền mang theo và 5.000.000 đồng tiền thắng game (Bút lục số 73, 76, 125 -127). Các lời khai của ông V1 lại phù hợp với lời khai của bà T1 có trong quá trình điều tra vụ án, như: Đơn xin rút lại Tờ đơn xin rút tố cáo và đơn bãi nại, Biên bản ghi lời khai ngày 26-4-2021 có nội dung như sau “…Khoảng 13 giờ ngày 12-4-2021, tôi đến quán cà phê đã hẹn và gặp anh V1, anh H1. Sau khi ngồi được một lúc, anh S nhân viên quán dê Thịnh P5 và đi cùng 03 người nữa tôi không biết tên. Anh S và 03 người này cùng đi đến, để thay mặt anh C để đền bù thiệt hại cho tôi và V1. Sử nói, đền bù cho V1 71.000.000 đồng tiền C giữ của V1 và thêm 100.000.000 đồng là tiền thiệt hại cho V1, tổng cộng là 171.000.000 đồng. Riêng tôi, S thay C đền bù cho tôi 50.000.000 đồng. …” (Bút lục số 75, 115 và 116). Ngoài các lời khai trên, ông V1 không có thêm lời khai khác. Trong khi đó, bị cáo P khai, thấy C2 lấy ví da của V1 kiểm tra và lấy ra số tiền 3.000.000 đồng để dưới ví da. Khi đưa V1 đi cấp cứu, P lấy số tiền này để thanh toán viện phí. Ngoài ra, tại phần nội dung của Bản án sơ thẩm thể hiện bị cáo P có 02 lần lấy tiền của bị hại V1 như sau: “... P lấy 3.000.000 đồng để dưới ví da của V1 đi theo sau để trả tiền điều trị...;... K1 lái xe ô tô chở P quay lại tiệm game. P lấy tiền và chìa khóa công tắc điện xe mô tô của T1 trên máy game cất trong tủ tiền của tiệm game và lấy ví da cá nhân của V1 bên trong có 3.000.000 đồng quay lại phòng khám N1 gặp V1. P trả tiền viện phí cho V1 hết 2.070.000 đồng và trả ví da cho V1, còn lại 930.000 đồng P giữ và cùng K1 ra về...” (trang 04 của Bản án sơ thẩm).

(ii) Bị hại Nguyễn Thị Huyền T1, lời khai sau lại có mâu thuẫn với lời khai trước, cụ thể: Biên bản ghi lời khai ngày 17-8-2020 (Bút lục số 121 -122), T1 khai có những nội dung sau: ...C nói với nhân viên “Tụi bây sập cửa xuống, không cho ai ra, tao đánh bọn này chết, sau đó có 02 nhân viên (không biết tên) ra đóng cửa lại...”...“C hỏi tôi, mày ăn của tao bao nhiêu tiền bỏ ra, tôi nói em ăn 10.000.000 đồng, thì tôi lấy ra 10.000.000 đồng đưa cho P, P lấy 10.000.000 đồng để lên máy game rồi lấy cái bóp của tôi dằn lên. Lúc này, C hỏi P nó nạp bao nhiêu tiền, P nói nạp 2.000.000 đồng, C kêu P trả lại cho tôi 2.000.000 đồng. P lấy 2.000.000 đồng cùng với cái bóp đưa lại cho tôi, còn 8.000.000 đồng P để lại trên màn hình máy game...”...“Sau khi V1 được đưa đi Bệnh viện, còn lại T8 bị C đánh, khoảng 10 phút sau thì có 01 người chạy đến nói có Công an đến Bệnh viện, thì C chỉ tay vào mặt tôi nói với nhân viên của C ” “Tụi mày giữ con này lại, giữ tiền, giữ xe nó cho tao” nghe vậy tôi lấy 20.000.000 đồng trong túi quần ra đếm trước mặt C và Đ thì tôi nói với C tiền của tôi 20.000.000 đồng thì tôi đem tất cả 20.000.000 đồng và chìa khóa xe của tôi để trên màn hình máy game. Khi thấy tôi để tài sản xong, thì C và Đ bỏ đi đâu tôi không biết. Sau đó, thì nhân viên của C cho tôi về....”; Biên bản ghi lời khai ngày 08-3-2021 tại bút lục số 117-118, T1 lại khai “...C kêu 02 thanh niên đi chung lôi V1 vào trong và nói Đóng cửa lại, đập chết mẹ nó cho tao”. “Lúc này, quản lý của tiệm game có ra đóng một bên cửa lại...”; “....C quay sang tôi nói “mày ăn tao bao nhiêu” thì có một thanh niên đi chung C nắm tóc tôi, tôi nói “Tôi không liên quan”, nên người này thả ra, tôi nói lúc nãy có xuống 10.000.000 đồng tiền điểm, C kêu tôi lấy ra, tôi lấy 10.000.000 đồng trong bóp ra để trên cái bóp của anh V1...”; “...Sau khi nhân viên của C về nói có Công an, C quay sang tôi nói “Mày ăn tao mấy bữa nay bao nhiêu tiền” tôi nói khoảng 17.000.000 đồng, thì C nói vậy tao phạt mày gấp đôi, trả lại tao 34.000.000 đồng. Tôi nói chỉ có 20.000.000 đồng thì C nói “Mày đi bằng gì” tôi nói xe máy thì C kêu để tiền và xe lại khi nào có đủ đến lấy xe. Tôi lấy ra 20.000.000 đồng trong bóp đếm, lúc này C ngồi trên ghế bố cạnh chỗ tôi, tôi để số tiền 20.000.000 đồng và chìa khóa xe mô tô lại trên máy game thứ 2 bên phải C. Lúc này, C cùng với Đ đi ra khỏi tiệm game. Khoảng 10 phút sau, nhân viên của C bảo tôi về đi, tôi cùng T8 bỏ về...”. Cấp sơ thẩm chưa điều tra làm rõ: Bị cáo P có lấy số tiền 10.000.000 đồng trực tiếp từ bị hại Trân hay bị hại T1 tự lấy ra để gần với số tiền 3.000.000 đồng của bị hại V1? Bị cáo Phúc đóng toàn bộ cửa hay chỉ bấm một bên cửa cuốn của Chi nhánh A? Đặc điểm của cửa tại Chi nhánh A thời điểm xảy ra vụ án như thế nào? Việc bị cáo P đóng cửa, là giúp sức cho hành vi đánh V1 của bị cáo C hay giúp sức để bị cáo C chiếm đoạt tài sản sau đó của bị hại V1 và T1? Giữa bị cáo C, T và bị cáo P có bàn bạc với nhau trước về việc chiếm đoạt tài sản của các bị hại không? Ý thức của bị cáo C chiếm đoạt số tiền 34.000.000 đồng từ bị hại T1 hay chiếm đoạt số tiền 28.000.000 đồng của T1 đã để ra bên ngoài trên màn hình máy game cùng với xe mô tô của bị hại T1 để lại? Tội phạm đã hoàn thành thời điểm nào, đối với hành vi của bị cáo C về việc chiếm đoạt đối với số tiền 3.000.000 đồng của bị hại V1; 8.000.000 đồng, 20.000.000 đồng và xe mô tô của bị hại T1? Tương ứng với vai trò đồng phạm của các bị cáo P và T như thế nào? Hay hành vi của các bị cáo P và T cấu thành tội phạm khác?.

(iii) Ngoài ra, cấp sơ thẩm chưa điều tra thu thập đầy đủ để chứng minh Chi nhánh A do ai làm chủ thực sự, cụ thể: Tại Giấynhận đăng ký hoạt động chi nhánh, đăng ký thay đổi lần thứ 1, ngày 30-5-2020 do Phòng đăng ký kinh doanh của Sở Y cấp, đối với Chi nhánh A, địa chỉ: Số nhà F, ấp E, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Long An, thông tin về người đứng đầu là bà Nguyễn Thị H; các lời khai của các bị cáo C, P và T ban đầu tại tại cơquan điều tra cho rằng: Chi nhánh A là do bị cáo C làm chủ; Sau đó các bị cáo đều thay đổi lời khai, cho rằng: Chi nhánh An Tài LộcPhát này do bà Nguyễn Thị H làm chủ; Tòa án cấp sơ thẩm đã trả hồ sơ để điều tra làm rõ nội dung này, nhưng Viện kiểm sát cấp sơ thẩm chỉ xác minh, thể hiện bà H hiện không có mặt tại nơi cư trú.

(iv) Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo C trình bày: Ông Nguyễn Minh H2 là người có mặt tại Chi nhánh A và cùng chơi game chung với bà T1 tại thời điểm bị cáo C đánh V1, bảo V1 và T1 trả tiền thắng game lại, ông H2 cũng bảo bà T1 trả lại; Ông H2 là người được các bị hại T1 và V1 ủy quyền để nhận tiền bồi thường từ bị cáo C với tổng số tiền là 371.000.000 đồng (bị cáo C cùng ông S có cung cấp file ghi âm và hình ảnh các lần giao nhận tiền), nhưng bị hại T1 và V1 trình bày chỉ nhận được số tiền 150.000.000 đồng. Do đó, cần triệu tập ông H2 để làm rõ về nội dung vụ án cũng như tiền bồi thường của bị cáo C cho các bị hại là bao nhiêu? Có hay không có việc cơ quan Công an huyện Đ thu giữ 02 đầu ghi Cameratại Nhà hàng của bị cáo C và tại Chi nhánh A? Nếu có, nội dung chứa đựng thông tin gì của vụ án tại Chi nhánh A?.

(v) Ngày 27-8-2020, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Đ đã có Kếtluận về định giá tài sản số 114/KL.ĐGTS đối với xe mô tô biển số 59B1- 558.80. Nhưng sau đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ không có thông báo kết luận về định giá tài sản cho các bị cáo biết, để có ý kiến về kết luận định giá theo quy định tại các khoản 2 và 3 Điều 222 Bộ luật Tố tụng hình sự. Sau đó, các bị cáo khiếu nại nhưng không được xem xét giải quyết.

(vi) Các Biênbản ghi lời khai; Biên bản hỏi cung đối với các bị cáo C, T và P trong hồ sơ vụ án chỉ thể hiện bị cáo ký tên tại phần giải thích quyền và nghĩa vụ và tại phần kết của biên bản. Trong khi đó, các Biên bản này được lập, đánh số nhiều tờ, có nhiều trang, có đầy đủ nội dung, nhưng không có chữ ký xác nhận của các bị cáo tại từng trang của biên bản là vi phạm khoản 2 Điều 184 Bộ luật Tố tụng hình sự.

6. Bản án hình sự phúc thẩm số 108/2024/HS-PT ngày 17/6/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang xét xử về tội “Cướp tài sản” đối với bị cáo Trương Thị Mỹ H do có kháng cáo của bị cáo Trương Thị Mỹ H và bị hại

Nội dung sửa án 

Khi xét xử sơ thẩm, bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào, nên cấp sơ thẩm áp dụng khoản 1 Điều 168 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo 3 năm 6 tháng tù là phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội.Tuy nhiên, đến khi xét xử phúc thẩm bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội, thể hiện sự ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của bản thân; đã tự nguyện bồi thường cho bị hại 29.000.000đ theo đúng yêu cầu của bị hại, mặc dù tài sản chiếm đoạt đã thu giữ và hoàn trả lại cho bị hại ngay sau khi thực hiện hành vi, đồng thời bị hại cũng không bị ảnh hưởng gì đến sức khỏe phải điều trị và tài sản cũng không bị hư hỏng gì; bị hại có ý kiến xin giảm hình phạt cho bị cáo; bản thân bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, nhất thời phạm tội do nhận thức phạm luật có phần hạn chế. Từ đó áp dụng cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, giảm một phần hình phạt cho bị cáo là thỏa đáng. Đồng thời thấy rằng có thể áp dụng khoản 3 Điều 54 Bộ luật hình sự để xử bị cáo mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng.

7. Bản án hình sự phúc thẩm số 78/2024/HS-PT ngày 16/11/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình xét xử về tội “Cướp tài sản” đối với bị cáo Phạm Văn D do có kháng cáo của bị cáo Phạm Văn D

Nội dung sửa án 

Xét kháng cáo của bị cáo Phạm Văn D xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo, Hội đồng xét xử thấy: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tự nguyện bồi thường thiệt hại cho người bị hại. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b,s khoản 1 Điều 51 BLHS. Cấp sơ thẩm đã áp dụng Điều 54 BLHS để xử bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt là thỏa đáng. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo trình bày mới bị tai nạn gãy tay và hiện tại sức khỏe yếu không lao động được như trước đây. Bị cáo có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, xét thấy không cần buộc bị cáo chấp hành hình phạt tù vẫn có tác dụng giáo dục đối với bị cáo. Vì vậy, sau khi thảo luận và nghị án, Hội đồng xét xử thấy cần chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Bố Trạch, giữ nguyên mức hình phạt nhưng cho bị cáo được hưởng án treo theo đề nhgị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình tại phiên tòa là phù hợp.

8. Bản án hình sự phúc thẩm số 113/2024/HS-PT ngày 23/8/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xét xử về tội “Cướp tài sản” đối với các bị cáo Phạm Thị Nhật L và Ngô Minh Đ do có kháng cáo của các bị cáo Phạm Thị Nhật L và Ngô Minh Đ

Nội dung sửa án 

(i) Tòa án cấp sơ thẩm đánh giá vai trò phạm tội của bị cáo L và bị cáo N3 ngang nhau là phù hợp. Tuy nhiên, tại cấp phúc thẩm bị cáo L xuất trình thêm tài liệu chứng minh về hoàn cảnh gia đình khó khăn và đơn xin giảm nhẹ mới của bị hại thể hiện đã khắc phục thiệt hại về tinh thần cho bị hại. Đây là các tình tiết mới phát sinh trong giai đoạn phúc thẩm, được Hội đồng xét xử chấp nhận áp dụng thêm cho bị cáo L.

(ii) Bị cáo Đ và bị cáo H3 không trực tiếp tham gia dùng vũ lực hoặc uy hiếp về tinh thần đối với bị hại, H3nh vi của Đ chỉ tham gia đọc lại nội dung để anh T1 ghi vào Giấy nhận nợ L 100.000.000 đồng là thể hiện ý chí đồng phạm với vai trò giúp sức, bị cáo H3 giúp sức trong việc mang chiếc xe ô tô của anh T1 đi cất giữ để làm tin trong việc trả nợ.Tuy nhiên, Đ có mối quan hệ tình cảm yêu đương với bị cáo L nên việc “giúp đỡ” L như trên là đồng phạm với L nhưng chỉ giữ vai trò thứ yếu trong vụ án. Bản thân Đ đã từng hoàn tH3nh nghĩa vụ quân sự trở về địa phương và tại cấp phúc thẩm đã xin lỗi và khắc phục tổn thất về tinh thần cho bị hại,đây là tình tiết giảm nhẹ mới củ bị cáo.

9. Bản án hình sự phúc thẩm số 125/2024/HS-PT ngày 24/9/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hoà xét xử về tội “Cướp tài sản” đối với bị cáo Nguyễn Ngọc S và các bị cáo khác do có kháng cáo của bị cáo bị cáo

Nội dung sửa án 

Hành vi của các bị cáo là rất nguy hiểm, trực tiếp xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác, ảnh hưởng rất xấu đến trật tự và an toàn xã hội, gây bất bình trong dư luận. Mặc dù các bị cáo đều có nhân thân tốt nhưng lại phạm tội rất nghiêm trọng nên cấp sơ thẩm áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với các bị cáo là cần thiết nhằm tăng cường tác dụng giáo dục và ngăn ngừa chung.

Tuy vậy, căn cứ hồ sơ vụ án, theo tài liệu điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm bị hại đã có đơn bãi nại và đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo nhưng chưa được cấp sơ thẩm vận dụng. Do đó, cấp phúc thẩm áp dụng thêm tình tiết này để giảm cho mỗi bị cáo một phần hình phạt, để họ thấy được sự khoan hồng của Nhà nước mà tích cực cải tạo thành công dân tốt.

10. Bản án hình sự phúc thẩm số 26/2024/HS-PT ngày 08/3/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An xét xử về tội “Cướp tài sản” đối với các bị cáo Đinh Văn T và Nguyễn Lệ Mai C do có kháng cáo của các bị cáo Đinh Văn T và Nguyễn Lệ Mai C

Nội dung sửa án 

(i) Việc xác định nhân thân lai lịch bị cáo Đinh Văn T của Tòa án cấp sơ thẩm: Các tài liệu về nhân thân bị cáo T từ BL 83 đến BL 89 cho thấy, bị cáo T đã từng bị xử phạt vi phạm hành chính như sau: Ngày 02/8/2010 Công an phường Q- Công an thành phố V xử phạt về hành vi gây rối trật tự công cộng; ngày 15/3/2011, Công an phương L2- Công an thành phố V xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Lừa đảo chiếm đoạt tài sản; ngày 01/3/2021, Công an xã H- Công an thành phố V xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Đánh bạc. Việc Tòa án cấp sơ thẩm xác định nhân thân bị cáo như bản án sơ thẩm là sai ngày, tháng, sai cơ quan ban hành quyết định xử phạt vậy nên cần phải xác định lại như phần lai lịch trên đây của bản án phúc thẩm đối với bị cáo Đinh Văn T mới chính xác. Tuy việc xác định sai lai lịch của bị cáo nhưng không làm thay đổi bản chất vụ án, cấp sơ thẩm cần rút kinh nghiệm.

(ii) Xét nội dung kháng cáo bổ sung của bị cáo Nguyễn Lệ Mai C: Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo bổ sung nội dung kháng cáo đề nghị được hưởng án treo, thấy rằng, việc bổ sung kháng cáo không vượt quá phạm vi kháng cáo ban đầu nên Hội đồng xét xử xem xét theo luật định. Các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội có tính chất đồng phạm giản đơn. Quá trình thực hiện hành vi phạm tội bị cáo C tham gia với vai trò giúp sức không đáng kể, thái độ khai báo là thành khẩn, ăn năn hối cải, khi phạm tôi bị cáo đang mang thai, sau khi phạm tội đã thúc dục chồng là bị cáo T trả lại toàn bộ tài sản đã chiếm đoạt cho bị hại, bố của bị cáo là người có công trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, đây là những tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm b, s, n khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự mà bị cáo được áp dụng. Bị cáo có nhân thân tốt, đây là lần đầu phạm tội, có nơi cư trú rõ ràng vì vậy có căn cứ để Hội đồng xét xử chấp nhận nội dung kháng cáo bổ sung buộc bị cáo chấp hành hình phạt tại địa phương cũng đủ sức phát huy tác dụng hình phạt.

Góp ý