MỤC LỤC
1. Bản án hình sự phúc thẩm số 66/2024/HS-PT ngày 20/9/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử về tội “Trộm cắp tài sản” đối với các bị cáo Võ Quốc T và Nguyễn Trường A do có kháng nghị của Viện kiểm sát
Nội dung hủy án:
Xét Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 245/QĐ-VKS-P7 ngày 27/6/2024 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre, thấy rằng: Lê Ngọc K đã có 02 tiền án, cụ thể: Tại Bản án số 12/2018/HS-ST ngày 09/5/2018 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Bến Tre xử phạt Lê Ngọc K 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Tại Bản án số 33/2020/HS-ST ngày 15/9/2020 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Bến Tre xử phạt Lê Ngọc K 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Như vậy, theo Bản án số 33/2020/HS-ST ngày 15/9/2020 thì Lê Ngọc K đã tái phạm. Sau đó, trong khoảng thời gian từ ngày 10/5/2023 đến 27/7/2023, Lê Ngọc K đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C, tỉnh Bến Tre ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự số 26/QĐ-CSĐT ngày 04/8/2023, Quyết định khởi tố bị can số 31/QĐ-CSĐT ngày 07/8/2023, Bản Kết luận điều tra số 32/CSĐT ngày 29/12/2023 với các tình tiết định khung theo điểm b, c, g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự; Viện kiểm sát nhân dân huyện C ra Bản cáo trạng số 13/CT-VKS ngày 24/01/2024 với các tình tiết định khung theo điểm b, c khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự (tổng số tiền chiếm đoạt được xác định là 57.162.000 đồng); Tòa án nhân dân huyện C đã xét xử vụ án theo Bản án số 18/2024/HS-ST ngày 08-4-2024 với mức hình phạt 04 năm tù. Cũng trong khoản thời gian đó, ngày 05/7/2023, Lê Ngọc K cùng với Võ Quốc T thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt 01 cây mai vàng của ông Nguyễn Thanh D trị giá 1.400.000 đồng, tính đến ngày 05/7/2023 thì Lê Ngọc K chưa được xóa án tích nên hành vi này của K đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo tình tiết định khung tại điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên, Bản án hình sự sơ thẩm số 30/2024/HS-ST ngày 29/5/2024 của Tòa án nhân dân huyện C nhận định:“Lê Ngọc K có 02 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” (tiền án sau là “Tái phạm”) tuy nhiên trong một vụ án khác đang giải quyết thì K trộm cắp tài sản trị giá 1.700.000 đồng và Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C đã sử dụng tiền án “Tái phạm” để làm tình tiết định tội, khởi tố vụ án, khởi tố bị can Lê Ngọc K về tội “Trộm cắp tài sản” (Quyết định khởi tố vụ án số 26/QĐ-CSĐT ngày 04/8/2023, Quyết định khởi tố bị can số 31/QĐ-CSĐT ngày 07/8/2023) nên không tiếp tục sử dụng tiền án để khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với K trong vụ trộm này là phù hợp”. Xét thấy nhận định này của cấp sơ thẩm là không phù hợp, có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, vì vậy cần hủy toàn bộ Bản án sơ thẩm để trả hồ sơ vụ án về cho cấp sơ thẩm điều tra lại vụ án là phù hợp. Ngoài ra khi xét xử vụ án cấp sơ thẩm còn có những sai sót, cụ thể: tại Biên bản nghị án áp dụng khoản 1 Điều 178 của Bộ luật Hình sự về tội “Hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản”, tội danh này không có trong vụ án; hai lần ghi “xử phạt bị cáo Nguyễn Trường A 09 tháng tù”; không ghi thời gian bắt đầu nghị án và thời gian kết thúc nghị án; và một số sai sót khác đã được Kiểm sát viên trình bày tại phiên toà phúc thẩm đã được nêu ở phần trên; những sai sót này cũng phải được khắc phục cho đúng quy định của pháp luật.
2. Bản án hình sự phúc thẩm số 66/2024/HS-PT ngày 28/8/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ xét xử về tội “Trộm cắp tài sản” đối với bị cáo Nguyễn Thị Ánh N do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị Ánh N
Nội dung hủy án:
Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ vào lời khai của bị hại để xác định số tiền bị cáo lấy trộm trong ngày 17/7/2023 là 3.000.000 đồng trong khi lời khai ban đầu của bị cáo (bút lục số 86) lại thể hiện bị cáo thừa nhận có lấy trộm 3.000.000 đồng của bị hại vào ngày 19/7/2023, các lời khai sau đó bị cáo khai nhận lần lấy trộm nhiều tiền nhất là 1.500.000 đồng, 03 chiếc nhẫn bị cáo lấy trộm trong 03 ngày khác nhau, mỗi lần lấy trộm cách nhau từ 03 đến 04 ngày trở lên. Cấp sơ thẩm chưa tiến hành đối chất để làm rõ mâu thuẫn trong lời khai của bị cáo và người bị hại. Mặt khác, bị hại không xác định được thời gian cụ thể của từng lần mất tài sản. Bị cáo khai mỗi lần thực hiện hành vi phạm tội cách nhau từ 03 đến 04 ngày trở lên nên cần xem xét lại tính liên tục về mặt thời gian theo tinh thần hướng dẫn của Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTCVKSNDTC-BCA-BTP ngày 25/12/2001 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp.
Từ những đánh giá nêu trên, Hội đồng xét xử thống nhất với đề nghị của Kiểm sát viên hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại theo thủ tục chung.
3. Bản án hình sự phúc thẩm số 158/2024/HS-PT ngày 09/8/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng xét xử về tội “Trộm cắp tài sản” đối với bị cáo Nguyễn Như Tr do có kháng nghị của Viện kiểm sát
Nội dung hủy án:
Các cơ quan tiến hành tố tụng quận Thanh Khê xác định hành vi Nguyễn Như Tr sử dụng điện thoại của anh Trần Nhật T đăng nhập vào ứng dụng internet banking, chuyển khoản 02 lần tổng số tiền 2.900.000 đồng (lần 1 vào lúc 03 giờ 25 phút: 2.500.000 đồng; lần 2 vào lúc 03 giờ 31 phút: 400.000 đồng) từ tài khoản của anh Trần Nhật T sang tài khoản số 0888787003 mang tên “Nguyen Nhu Tr” mở tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam của Nguyễn Như Tr là hành vi trộm cắp tài sản, theo đó cộng số tiền 2.900.000 đồng này với giá trị chiếc điện thoại mà Tr đã trộm cắp của anh T để điều tra, truy tố, xét xử bị cáo chỉ về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự là có dấu hiệu bỏ lọt tội: “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” quy định tại Điều 290 Bộ luật Hình sự đối với Nguyễn Như Tr. Do đó, kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng là có căn cứ. Hội đồng xét xử chấp nhận kháng nghị, hủy bản án sơ thẩm, giao hồ sơ cho Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê để điều tra, truy tố lại theo quy định của pháp luật.
4. Bản án hình sự phúc thẩm số 54/2024/HS-PT ngày 19/7/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông xét xử về tội “Trộm cắp tài sản” đối với bị cáo Nguyễn Văn H do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn H
Nội dung hủy án:
Tại Bản án sơ thẩm số: 35/2024/HS-ST, ngày 16 tháng 5 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Đắk Song xử phạt Nguyễn Văn H về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại điểm c khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự. Qua xem xét các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử xét thấy: Tại giai đoạn xét xử sơ thẩm, Biên bản nghị án và Bản án có sự khác nhau về mức hình phạt và các tình tiết giảm nhẹ; bị cáo đã tác động vợ mang tài sản trộm cắp nộp ở Công an điều tra nhưng chưa được làm rõ; chiếc xe mô tô BKS 47T1-103.XX, màu xanh trắng, nhãn hiệu Espero chủ sỡ hữu là Nguyễn Văn H do không phải là phương tiện phạm tội. Xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, việc áp dụng các tình tiết giảm nhẹ và xử lý vật chứng là chưa đúng quy định của pháp luật. Do đó, cần phải hủy Bản án hình sự sơ thẩm số: 35/2024/HS-ST, ngày 16 tháng 5 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Đắk Song đối với bị cáo Nguyễn Văn H, chuyển hồ sơ cho Tòa án nhân dân huyện Đắk Song xét xử lại.
5. Bản án hình sự phúc thẩm số 168/2023/HS-PT ngày 20/12/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An xét xử về tội “Trộm cắp tài sản” đối với bị cáo Mai Quốc D do có kháng nghị của Viện kiểm sát
Nội dung hủy án:
Xét kháng nghị của Viện Trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An: Theo hồ sơ vụ án, cáo trạng và bản án sơ thẩm thể hiện: Vào ngày 09/5/2023 bị cáo đã thực hiện 2 lần trộm cắp tài sản ngoài chiếc điện thoại OPPO A17K màu xanh mà bị cáo lấy trộm của Ngô Quốc T2, bị cáo Mai Quốc D còn lấy trộm 01 điện thoại Iphone X màu vàng trong xe ô tô chưa rõ biển số đang đậu gần xe của ông T2. Hiện tại điện thoại Iphone X màu vàng Công an huyện T đang tạm giữ. Mặc dù đang thông báo, chưa tìm được chủ sở hữu nhưng trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ các lời khai của bị cáo D, bản tự khai kèm các biên bản hỏi cung có ghi âm, có tài sản là vật chứng bị cáo đã thực hiện hành vi trộm cắp. Tại phiên tòa Phúc thẩm bị cáo cũng thừa nhận bị cáo đã có hành vi trộm cắp chiếc điện thoại Iphone X đã đủ cơ sở để khẳng định ngày 09/5/2023, bị cáo D đã chiếm đoạt 02 chiếc điện thoại nêu trên. Việc Cơ quan CSĐT Công an huyện T chỉ trưng cầu định giá 01 điện thoại hiệu OPPO A17K màu xanh của T2 mà không trưng cầu định giá điện thoại Iphone X màu vàng đang tạm giữ để xử lý trong cùng một vụ án mà để lại tiếp tục điều tra xác minh xử lý sau là không phù hợp. Đây là trường hợp “Điều tra chưa đầy đủ, xử lý chưa triệt để vụ án” làm ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan, toàn diện của vụ án, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Tại phiên tòa phúc thẩm không khắc phục được. Xét thấy: có căn cứ áp dụng điểm c, khoản 1, Điều 355 và điểm c, khoản 1, Điều 358 Bộ luật tố tụng hình sự. Chấp nhận Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An hủy Toàn bộ bản án hình sự sơ thẩm số: 37 ngày 26/9/2023 của Tòa án nhân dân huyện Thủ Thừa, tỉnh Long an, giao hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nhân dân huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An điều tra lại theo thủ tục chung.
6. Bản án hình sự phúc thẩm số 15/2024/HS-PT ngày 13/6/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang xét xử về tội “Trộm cắp tài sản” đối với bị cáo Triệu Văn H do có kháng cáo của bị cáo Triệu Văn H
Nội dung sửa án:
Xét nội dung kháng cáo của bị cáo thấy rằng: Vợ chồng ông Triệu Thanh X1 sống cùng ông Triệu Văn H2, do tuổi cao nên việc làm ăn, phát triển kinh tế gia đình giao cho ông H2 quản lý, để trang trải khoản nợ của gia đình ông X1 đã nhất trí cho ông H2 ký hợp đồng trồng cây với ông H1 trên diện tích đất của hộ gia đình ông Triệu Thanh X1; sau khi được ông X1 nhất trí cho trồng cây trên các diện tích đất tại khu Đ, thôn N. Tháng 1/2018 ông Triệu Văn H2 và ông Vũ Văn H1 đã ký Giấy hợp đồng trồng cây có sự chứng kiến của Trưởng thôn ông Hoàng Đức Q và ông Triệu Văn H6 (là em ông H2, con của ông X1), trong hợp đồng thể hiện trồng cây trên đất được cấp sổ đỏ gia đình ông H2 số AO . 131801, A0 . 131802 diện tích 75.242m, thời hạn 04 năm, sau khi ký hợp đồng ông H2 và ông H1 đã phát trắng đồi, dọn sạch để trồng cây Keo, sau đó các cây Bồ đề và cây mọc tự nhiên trên diện tích đã phát để trồng Keo. Tại hợp đồng trồng rừng không thể hiện nội dung ông H1, ông H2 sẽ trồng những loại cây gì, trên thực tế, ông H1, ông H2 đã trồng Keo và chăm sóc các cây Bồ đề mọc tự nhiên trên đất, các cây Bồ đề này mọc trong diện tích đất rừng mà ông X1 đã nhất trí cho ông H1, ông H2 cùng trồng rừng (hộ gia đình ông Triệu Thanh X1 được cấp 02 sổ đỏ số AO . 131801, A0 . 131802 ngày 15/6/2009 diện tích là 75.242m), và cũng nhờ sự chăm sóc, phát tỉa của ông H1, ông H2 thì số cây Bồ đề này mới sinh trưởng, phát triển và giữ được đến tuổi khai thác. Vị trí các cây Bồ đề mà bị cáo trộm cắp đã được thể hiện tại biên bản khám nghiệm hiện trường, được định vị bằng máy GARMIN GPS MAP GS64s để xác định, các cây gỗ Bồ đề này nằm trên diện tích đất hộ gia đình ông X1 được cấp sổ đỏ và ông X1 nhất trí để ông H2, ông H1 hợp đồng trồng cây. Như vậy đủ căn cứ xác định các cây Bồ đề mà bị cáo Triệu Văn H đã cắt và bán ngày 02/5/2023, ngày 06/5/2023 thuộc quyền sở hữu của ông Triệu Văn H2 và ông Vũ Văn H1. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, áp dụng các tình tiết giảm nhẹ để xử phạt bị cáo với mức án 01 năm 04 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản là đúng người, đúng tội. Tuy nhiên tại Cơ quan điều tra bị cáo đã thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của bị cáo, tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo trình bày các cây gỗ Bồ đề mà bị cáo khai thác không thuộc quyền sở hữu của ông H1, ông H2, mà thuộc quyền sở hữu của bố đẻ bị cáo là ông Triệu Thanh X và ông X đã nhất trí cho bị cáo khai thác, Tòa án cấp sơ thẩm không áp dụng tình tiết người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự cho bị cáo là chưa đầy đủ. Tại cấp phúc thẩm bị cáo cung cấp tình tiết mới bị cáo đã tác động anh trai là Triệu Văn H6 bồi thường cho ông Triệu Văn H2 số tiền là 9.671.000 đồng, xét thấy bị cáo có tình tiết tăng nặng phạm tội 02 lần trở lên, nhưng phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ là khắc phục một phần hậu quản, thành khẩn khai báo, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, là dân tộc thiểu số sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn, nên chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo, sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 15/2024/HS-ST ngày 19 tháng 3 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang giữ nguyên hình phạt, cho bị cáo Triệu Văn H được hưởng án treo, như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là phù hợp pháp luật.
7. Bản án hình sự phúc thẩm số 40/2024/HS-PT ngày 06/6/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Thuận xét xử về tội “Trộm cắp tài sản” đối với bị cáo Lê Đ do có kháng cáo của bị cáo Lê Đ
Nội dung sửa án:
Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo như: Tự nguyện bồi thường, khắc phục một phần thiệt hại cho bị hại; phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; thành khẩn khai báo ăn năn hối cải theo quy định tại điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự và chỉ xử phạt bị cáo mức án 15 tháng tù là đã xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Tại giai đoạn sơ thẩm bị hại bà Đoàn Thị T có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nhưng Tòa án cấp sơ thẩm chưa ghi nhận và áp dụng là có thiếu sót. Tại giai đoạn phúc thẩm, bị cáo đã bồi thường toàn bộ số tiền chiếm đoạt cho bị hại, bị cáo hoàn cảnh gia đình khó khăn là lao động chính trong gia đình, vợ bị cáo mới sinh con nhỏ. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới quy định tại khoản 2 Điều 51 bộ luật Hình sự.
Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận một phần kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, sửa bản án hình sự sơ thẩm về phần hình phạt như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Ninh Thuận tại phiên tòa.
8. Bản án hình sự phúc thẩm số 464/2024/HS-PT ngày 30/5/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử về tội “Trộm cắp tài sản” đối với bị cáo Nguyễn Văn S và các bị cáo khác do có kháng nghị của Viện kiểm sát
Nội dung sửa án:
Theo các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án và kết quả tranh tụng tại phiên tòa thể hiện các bị cáo Nguyễn Văn S, Nguyễn Ngọc T, Nguyễn Văn T1 và Vy Văn Q1 đều có việc làm và thu nhập ổn định; các bị cáo đều phạm tội nhiều lần nhưng chưa đủ căn cứ chứng minh các bị cáo đã sử dụng tài sản có được từ việc phạm tội để làm nguồn thu nhập chính; nên hành vi của các bị cáo chưa thỏa mãn dấu hiệu “có tính chất chuyên nghiệp” là tình tiết định khung tăng nặng theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 173 và điểm b khoản 2 Điều 323 Bộ luật Hình sự. Vì vậy, Quyết định kháng nghị của Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội đề nghị không áp dụng tình tiết định khung tăng nặng “có tính chất chuyên nghiệp” đối với các bị cáo là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận kháng nghị; Hội đồng xét xử ghi nhận quan điểm và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội trình bày tại phiên tòa phúc thẩm, sửa Bản án sơ thẩm về điều luật áp dụng và giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo; đủ tác dụng để giáo dục, cải tạo đối với các bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.
9. Bản án hình sự phúc thẩm số 03/2024/HSPT-CTN ngày 30/5/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử về tội “Trộm cắp tài sản” đối với bị cáo Lê Thị Lệ M do có kháng cáo của bị cáo Lê Thị Lệ M
Nội dung sửa án:
Thấy rằng, Sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo có nộp thêm một số tài liệu:
Đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị hại là ông Nguyễn Thành N, Đơn xin xác nhận hoàn ảnh gia đình khó khăn có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã Đ; Huân chương kháng chiến của ông Lê Văn N1 (ông nội bị cáo); xác nhận khen thưởng của huyện Q, tỉnh Nghệ An về việc bà Hồ Thị Đ (bà nội bị cáo) được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến han ba.
Xét bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, nhân thân tốt, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình và phạm tội chưa gây thiệt hại; bị cáo khi phạm tội còn đang ở độ tuổi vị thành niên nhận thức pháp luật còn hạn chế nên khi lượng hình cần áp dụng chế định của người chưa thành niên cho bị cáo M. Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Trong giai đoạn xét xử phúc thẩm bị cáo còn cung cấp thêm một số tài liệu, chứng cứ mới đây là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Vì vậy, để thể hiện tính nhân đạo và khoan hồng của pháp luật, Hội đồng xét xử thấy rằng không cần thiết phải bắt bị cáo chấp hành hình phạt tù mà cho bị cáo cải tạo tại chỗ dưới sự giám sát, giáo dục của địa phương và gia đình mà không gây nguy hiểm cho xã hội. không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội cũng đủ răng đe phòng ngừa tội phạm đồng thời cũng tạo điều kiện cho bị cáo làm việc phụ giúp cha mẹ nuôi các em ăn học. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo xin được hưởng án treo của bị cáo.
Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị cáo về giảm nhẹ hình phạt, chấp nhận kháng cáo của bị cáo xin được hưởng án treo sửa bản án sơ thẩm.
10. Bản án hình sự phúc thẩm số 118/2023/HS-PT ngày 20/9/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh xét xử về tội “Trộm cắp tài sản” đối với bị cáo Ngô Thị Tài L do có kháng cáo của bị cáo Ngô Thị Tài L
Nội dung sửa án:
Xét kháng cáo của bị cáo L, Hội đồng xét xử nhận thấy: trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cái về hành vi phạm tội của mình. Sau khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo đã tác động gia đình bồi thường toàn bộ thiệt hại cho nhà thuốc L – chị T1 là đại diện nhà thuốc L có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; bị cáo có bà cố ngoại tên Trần Thị S là mẹ Việt Nam anh hùng, liệt sỹ Võ Văn T2, Võ Văn N là anh em của ông ngoại bị cáo, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, bị cáo nhất thời phạm tội, ngoài lần phạm tội này bị cáo luôn chấp hành tốt các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước tại địa phương, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng; nếu không bắt bị cáo đi chấp hành án thì cũng không gây nguy hiểm cho xã hội. Căn cứ quy định tại Nghị quyết 02/2018 ngày 15/5/2018, được sửa đổi bổ sung tại Nghị quyết số 01/2022/NQ-HĐTP ngày 15/4/2022 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, bị cáo có đủ điều kiện để hưởng án treo, nên không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà giao bị cáo về địa phương để giám sát, giáo dục cũng đủ tác dụng răn đe và phòng ngừa chung. Do đó, chấp nhận kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo L, sửa bản án sơ thẩm. Đề nghị của người bào chữa cho bị cáo và ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ nên chấp nhận.