Tổng hợp 10 bản án hủy, sửa về tội "Hiếp dâm"

MỤC LỤC

1. Bản án hình sự phúc thẩm số 161/2023/HS-PT ngày 16/11/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An xét xử về tội “Hiếp dâm” đối với bị cáo Vũ Việt H do có kháng nghị của Viện kiểm sát

2. Bản án hình sự phúc thẩm số 186/2023/HS-PT ngày 24/11/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang xét xử về tội “Hiếp dâm” đối với bị cáo Nguyễn Văn H1 do có kháng cáo của người đại diện cho bị cáo H1 là Hoàng Thị N và bị hại Nguyễn Thị H2

3. Bản án hình sự phúc thẩm số 29/2023/HS-PT ngày 22/3/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa xét xử về tội “Hiếp dâm” đối với bị cáo Cao Tiến T do có kháng cáo của người đại diện hợp pháp của bị hại là Văn Tấn C

4. Bản án hình sự phúc thẩm số 65/2023/HS-PT ngày 17/7/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử về tội “Hiếp dâm” đối với bị cáo Sơn Ng do có kháng cáo của bị cáo Sơn Ng và của bị hại

5. Bản án hình sự phúc thẩm số 44/2023/HS-PT ngày 22/5/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử về tội “Hiếp dâm” đối với bị cáo Nguyễn Văn T do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn T và đại diện hợp pháp của bị hại

6. Bản án hình sự phúc thẩm số 494/2020/HS-PT ngày 21/12/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xét xử về tội “Hiếp dâm” đối với bị cáo Đinh Kim T do có kháng cáo của người đại diện theo pháp luật cho bị hại

7. Bản án hình sự phúc thẩm số 72/2020/HS-PT ngày 12/6/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang xét xử về tội “Hiếp dâm” đối với bị cáo Vũ Văn T do có kháng cáo của bị cáo Vũ Văn T và kháng cáo của chị Nguyễn Thị M là người bị hại

8. Bản án hình sự phúc thẩm số 12/2019/HS-PT ngày 10/01/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang xét xử về tội “Hiếp dâm” đối với bị cáo Nguyễn Văn Tuấn K do có kháng cáo của bà Nguyễn Thị Tốt là đại diện hợp pháp cho bị cáo

9. Bản án hình sự phúc thẩm số 128/2018/HS-PT ngày 21/9/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tài xét xử về các tội “Cướp tài sản” và tội “Hiếp dâm” đối với bị cáo Nguyễn Thanh V do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thanh V

10. Bản án hình sự phúc thẩm số 315/2021/HS-PT ngày 15/7/2021 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử về tội “Hiếp dâm” đối với bị cáo Vàng A T do có kháng cáo của bị cáo Vàng A T

 

1. Bản án hình sự phúc thẩm số 161/2023/HS-PT ngày 16/11/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An xét xử về tội “Hiếp dâm” đối với bị cáo Vũ Việt H do có kháng nghị của Viện kiểm sát

Nội dung hủy án:

(i) Do đó, có căn cứ khẳng định Nguyễn Thị S bị thiểu năng trí tuệ, ngẩn ngẩn, ngơ ngơ trước khi bị Vũ Việt H thực hiện hành vi phạm tội đối với Nguyễn Thị S, việc bị hại Nguyễn Thị S bị bệnh thì nhiều người trong xã Q đều biết, nhưng Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát không tiến hành thu thập tài liệu và tiến hành giám định tình trạng bệnh của bị hại để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị cáo là thiếu sót nghiêm trọng, nên Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An đã trả hồ sơ điều tra bổ sung cho Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An là có căn cứ.

(ii) Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Lưu không phối hợp cùng với Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Lưu là chưa thực hiện đúng theo quy định tại Thông tư liên tịch số 02/2017/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP ngày 22/12/2017 về việc phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong thực hiện một số quy định của BLTTHS về trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Vì vậy, không có cơ sở để chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân nhân huyện Q cho rằng trách nhiệm giám định pháp y về tâm thần đối với bị hại Nguyễn Thị S thuộc về Toà án nhân dân huyện Quỳnh Lưu.

(iii) Tại phiên tòa ngày 28/7/2023, đại diện Viện kiểm sát không tiến hành Công bố bản cáo trạng và không trình bày luận tội đối với bị cáo Vũ Việt H và đề nghị hoãn phiên tòa với lý do Tòa án chưa bổ sung các chứng cứ tài liệu liên quan đến thủ tục giám định pháp y về tâm thần đối với Nguyễn Thị S theo quy định tại điều 206 Bộ luật Tố tụng hình sự, nhưng Tòa án vẫn tiến hành đưa vụ án ra xét xử và tuyên án là vi phạm nghiêm trọng quy định tại khoản 1 Điều 298 Bộ luật tố tụng hình sự, làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của bị hại Nguyễn Thị S cũng như việc xem xét áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết định khung đối với bị cáo Vũ Việt H.

2. Bản án hình sự phúc thẩm số 186/2023/HS-PT ngày 24/11/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang xét xử về tội “Hiếp dâm” đối với bị cáo Nguyễn Văn H1 do có kháng cáo của người đại diện cho bị cáo H1 là Hoàng Thị N và bị hại Nguyễn Thị H2

Nội dung hủy án 

(i) Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy: Hành vi trên của bị cáo Nguyễn Văn Hồ cấp sơ thẩm cho rằng bị cáo mới thực hiện hiếp dâm chị H2 được một lần là không đúng, bởi lẽ:

Về mặt khách quan: Đối với hành vi lần thứ nhất, bị cáo Nguyễn Văn H1 đã dùng vũ lực ôm đẩy chị H2 ngã xuống giường rồi nằm đè lên người chị H2, ấn dương vật của mình vào bộ phận sinh dục của chị H2 qua lớp quần áo để giao cấu trái ý muốn của chị H2. Việc giao cấu chỉ cần có sự cọ sát trực tiếp dương vật vào bộ phận sinh dục của người phụ nữ với ý thức ấn vào trong không kể sự xâm nhập của dương vật là sâu hay cạn, không kể có xuất tinh hay không là tội Hiếp dâm được coi là hoàn thành, vì khi đó nhân phẩm danh dự của người phụ nữ đã bị chà đạp, như vậy tội phạm đã hoàn thành.

Về mặt chủ quan: Người phạm tội thực hiện hành vi của mình là do lỗi cố ý. Tội phạm hoàn thành khi có hành vi giao cấu hoặc quan hệ tình dục không phụ thuộc vào đã hoàn thành về mặt sinh lý hay chưa.

Đối với hành vi thứ hai, bị cáo Nguyễn Văn H1 đã thực hiện hàn thành.

Như vậy, hành vi của bị cáo Nguyễn Văn H1 cấp sơ thẩm điều tra, truy tố, xét xử về tội “Hiếp dâm” theo quy định tại khoản 1 Điều 141 của Bộ luật Hình sự, là không đúng quy định của pháp luật.

(ii) Tại kết luận giám định pháp y về hóa pháp số 1269/PY-XNĐH ngày 13/12/2022 của V và công văn số 08/PX-XNĐH ngày 06/01/2023 của V xác định: Các mẫu nước trong ly thủy tinh và bình siêu tốc Cơ quan điều tra thu giữ được có chứa chất ma túy với tổng khối lượng các chất ma túy là: 0,019013gam ma túy MDMA và 0,084001gam ma túy Ketamine. Nước trong ly thủy tinh và bình siêu tốc là do bị cáo H1 đun và rót ra 02 ly thủy tinh để H1 và chị H2 uống nhưng chưa điều tra làm rõ các chất ma túy MDMA và ma túy Ketamine của bị cáo H1 hay của người khác để xem xét xử lý theo quy định của pháp luật.

(iii) Ngoài ra trong phần Quyết định tuyên: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H1 02 (Hai) năm 06 (sáu) tháng tù nhưng không tuyên về tội gì là thiếu sót.

3. Bản án hình sự phúc thẩm số 29/2023/HS-PT ngày 22/3/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa xét xử về tội “Hiếp dâm” đối với bị cáo Cao Tiến T do có kháng cáo của người đại diện hợp pháp của bị hại là Văn Tấn C

Nội dung hủy án 

Hội đồng xét xử nhận thấy, tại phiên tòa bị cáo T khai nhận H là người đưa bao cao su cho cho bị cáo. Bị cáo và những người làm chứng đều khai thời điểm bị cáo thực hiện hành vi phạm tội vào buổi tối, tại khu vực này không có đèn chiếu sáng, điều kiện ánh sáng tự nhiên hầu như không có (đêm 29 âm lịch), khả năng nhìn rất hạn chế. Do đó, cần làm rõ trong điều kiện nêu trên, bị cáo có thể nhìn thấy bao cao su nằm dưới vạt cỏ để lấy sử dụng không, có đồng phạm giúp sức cho bị cáo thực hiện hành vi phạm tội không.

Sau khi bị cáo T thực hiện hành vi hiếp dâm đối với chị Th, H chở chị Th về nhà, sau đó trả xe cho bị cáo T. Từ thời gian này trở đi H, bị cáo T và chị Th không gặp nhau, tuy nhiên, cả ba người đều khai giống nhau về tình tiết là khi chị Th kêu la, giãy giụa không đồng ý cho bị cáo T giao cấu thì H đã nói với Th cho T chơi một cái rồi H sẽ chở Th về, nếu không T sẽ kể chuyện quan hệ giữa H và Th cho mọi người biết. Do đó, cần làm rõ tình tiết này để xác định ngoài hành vi dùng vũ lực của bị cáo T, còn có hành vi đe dọa của H đối với bị hại nhằm giúp bị cáo thực hiện hành vi giao cấu trái ý muốn của bị hại hay không.

Đối với P là người rủ bị cáo T đi rình H và Th tâm sự, cần làm rõ vì sao P chở bị cáo T đến chính xác địa điểm đồi thông, làm rõ có hay không việc bàn bạc giữa H, P và bị cáo T trước và trong ngày xảy ra vụ án.

Qua tranh tụng công khai tại phiên tòa, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải làm rõ một số vấn đề như đã nhận định trên nhằm xác định sự thật khách quan, tránh bỏ lọt tội phạm, do đó, cần hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại theo theo thủ tục chung. Bản án hình sự sơ thẩm đã kiến nghị tiếp tục làm rõ có đồng phạm trong vụ án hay không nên Hội đồng xét xử sơ thẩm không có lỗi.

4. Bản án hình sự phúc thẩm số 65/2023/HS-PT ngày 17/7/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử về tội “Hiếp dâm” đối với bị cáo Sơn Ng do có kháng cáo của bị cáo Sơn Ng và của bị hại

Nội dung hủy án 

Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo kháng cáo xin được miễn trách nhiệm hình sự; bị hại kháng cáo đề nghị miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo do bị hại rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự đối với bị cáo. Vào ngày 28/6/2023, Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau đã có làm việc trực tiếp với bị hại. Bị hại khẳng định việc rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự đối với bị cáo là tự nguyện, không bị ép buộc. Lý do sau khi xét xử sơ thẩm, giữa bị cáo và bị hại đã có thỏa thuận với nhau về việc bị cáo bồi thường cho bị hại được 20.000.000 đồng, số tiền còn lại theo như quyết định của án sơ thẩm thì bị hại không còn yêu cầu bị cáo phải bồi thường nữa. Do đó, bị cáo không phải có nghĩa vụ thi hành phần trách nhiệm dân sự như quyết định của bản án hình sự sơ thẩm. Theo khoản 2 Điều 155 và Điều 359 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử cần hủy bản án hình sự sơ thẩm và đình chỉ vụ án về phần trách nhiệm hình sự và phần trách nhiệm dân sự.

5. Bản án hình sự phúc thẩm số 44/2023/HS-PT ngày 22/5/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử về tội “Hiếp dâm” đối với bị cáo Nguyễn Văn T do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn T và đại diện hợp pháp của bị hại

Nội dung hủy án 

Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Ngày 21/3/2023 người đại diện hợp pháp của bị hại có đơn yêu cầu không xử lý hình sự và đơn kháng cáo yêu cầu rút yêu cầu khởi tố, không yêu cầu xử lý hình sự đối với Nguyễn Văn T về hành vi hiếp dâm Doãn Kiều T1. Tại phiên Tòa bà Tống Cẩm L khẳng định việc bà đại diện rút yêu cầu không xử lý hình sự đối với bị cáo là hoàn toàn tự nguyện. Lý do bà L rút đơn yêu cầu khởi tố là do bà thấy hoàn cảnh bị cáo khó khăn, biết ăn năn hối cải và đã khắc phục tòan bộ phần trách nhiệm dân sự cho gia đình bà với số tiền là 22.000.000 đồng. Xét việc rút đơn yêu cầu không khởi tố đối với bị cáo Nguyễn Văn T nêu trên của bà Tống Cẩm L không bị ai ép buộc, không trái ý muốn của đại diện bị hại, phù hợp với quy định pháp luật, nên được chấp nhận. Từ đó, Hội đồng xét xử cần hủy Bản án hình sự sơ thẩm và đình chỉ vụ án là phù hợp với khoản 2 Điều 155 và Điều 359 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tuy nhiên, cũng cần kết luận, do đại diện bị hại rút yêu cầu khởi tố vụ án, nên Hội đồng xét xử hủy án Bản sơ thẩm và đình chỉ vụ án, không phải thuộc trường hợp bị cáo không phạm tội, nên cấp sơ thẩm không có lỗi, vì vậy không làm phát sinh trách nhiệm bồi thường Nhà nước được quy định tại điểm c khoản 2 Điều 32 Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017.

6. Bản án hình sự phúc thẩm số 494/2020/HS-PT ngày 21/12/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xét xử về tội “Hiếp dâm” đối với bị cáo Đinh Kim T do có kháng cáo của người đại diện theo pháp luật cho bị hại

Nội dung sửa án 

Án sơ thẩm đã xem xét các tình tiết giảm nhẹ và xử phạt bị cáo T 05 năm 06 tháng tù về tội “Hiếp dâm” là có phần nhẹ, đại diện người bị hại kháng cáo đề nghị tăng hình phạt là có cơ sở chấp nhận, do đó Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của đại diện hợp pháp người bị hại tăng mức hình phạt đối với bị cáo để thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật.

7. Bản án hình sự phúc thẩm số 72/2020/HS-PT ngày 12/6/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang xét xử về tội “Hiếp dâm” đối với bị cáo Vũ Văn T do có kháng cáo của bị cáo Vũ Văn T và kháng cáo của chị Nguyễn Thị M là người bị hại

Nội dung sửa án 

(i) Xét về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy: Án sơ thẩm xác định bị cáo Vũ Văn T không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thì thấy: Chị Nguyễn Thị M bị bệnh tâm thần chậm phát triển tâm thần nặng, mất khả năng nhận thức và mất khả năng điều khiển hành vi. Án sơ thẩm không áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Vũ Văn T là phạm tội đối với người bị hạn chế khả năng nhận thức theo quy định tại điểm k khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 là thiếu sót.

(ii) Sau khi xét xử sơ thẩm, tại quá trình xét xử phúc thẩm, chị Nguyễn Thị Chúc là vợ của bị cáo Vũ Văn T nộp 01 đơn xin tự nguyện nộp tiền bồi thường và án phí, 01 Biên lai thu tiền tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Lạng Giang số tiền 10.700.000đồng. Xét thấy đây là tình tiết giảm nhẹ mới, đó là bị cáo tự nguyện bồi thường khắc phục hậu quả, theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, cấp sơ thẩm chưa áp dụng tình tiết tăng nặng đối với bị cáo là phạm tội đối với người bị hạn chế khả năng nhận thức theo quy định tại điểm k khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Do vậy, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo giữ nguyên hình phạt như án sơ thẩm đã xét xử.

(iii) Đối với kháng cáo của chị Nguyễn Thị M là người bị hại đề nghị bị cáo phải tăng tiền bồi thường. Chị M do bà Nguyễn Thị M1 đại diện yêu cầu bị cáo T phải bồi thường cho bị hại tương đương với 10 tháng lương cơ bản là 14.900.000đồng. Hội đồng xét xử thấy, chị M bị bệnh tâm thần: Chậm phát triển tâm thần nặng, mất khả năng nhận thức và mất khả năng điều khiển hành vi. Do vậy, án sơ thẩm xử buộc bị cáo T bồi thường danh dự, nhân phẩm cho chị M là 10.000.000đ là thấp, nên chấp nhận kháng cáo của bị hại tăng mức bồi thường về danh dự, nhân phẩm cho chị M tương đương 10 tháng lương cơ bản là 14.900.000đồng là phù hợp.

8. Bản án hình sự phúc thẩm số 12/2019/HS-PT ngày 10/01/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang xét xử về tội “Hiếp dâm” đối với bị cáo Nguyễn Văn Tuấn K do có kháng cáo của bà Nguyễn Thị Tốt là đại diện hợp pháp cho bị cáo

Nội dung sửa án 

(i) Tại phiên tòa, đại diện hợp pháp của bị cáo cung cấp chứng cứ mới là biên lai khắc phục hậu quả cho bị hại số tiền 10.000.000 đồng. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015. Do đó, HĐXX phúc thẩm thống nhất chấp nhận ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Kiên Giang, chấp nhận ý kiến của người bào chữa cho bị cáo xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

(ii) Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm khi tuyên xử buộc bị cáo và đại diện bị cáo phải bồi thường khắc phục hậu quả cho bị hại số tiền 28.969.800 đồng nhưng không tuyên án phí có giá ngạch đối với số tiền bị cáo và đại diện hợp pháp của bị cáo phải liên đới khắc phục và không tuyên lãi suất chậm thi hành án đối với số tiền bồi thường khắc phục cho bị hại thông qua người đại diện hợp pháp của bị hại là có thiếu sót, cần rút kinh nghiệm. Tuy nhiên, không làm bất lợi cho bị cáo nên HĐXX không tuyên buộc bị cáo, đại diện hợp pháp của bị cáo phải chịu án phí sơ thẩm nhưng để đảm bảo thi hành bản án khi bản án có hiệu lực thi hành nên HĐXX xét thấy cần thiết phải buộc bị cáo và đại diện hợp pháp của bị cáo phải chịu lãi suất chậm thi hành án theo quy định tại khoản 2 Điều 468 BLDS năm 2015 đối với số tiền chậm thi hành tương ứng với thời gian chậm thi hành án.

9. Bản án hình sự phúc thẩm số 128/2018/HS-PT ngày 21/9/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tài xét xử về các tội “Cướp tài sản” và tội “Hiếp dâm” đối với bị cáo Nguyễn Thanh V do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thanh V

Nội dung sửa án 

(i) Tòa án cấp sơ thẩm nhận định bị cáo dùng xe môtô đuổi theo ép xe bị hại để chiếm đoạt tài sản của bị hại là hành vi dùng phương tiện nguy hiểm được qui định tại điểm d khoản 2 Điều 168 Bộ luật Hình sự năm 2015 là chưa đúng với quy định tại mục 2 Phần I Nghị Quyết 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17-4-2003 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự. Theo quy định trên thì bị cáo phạm tội không thuộc trường hợp định tại điểm d khoản 2 Điều 168. Hành vi bị cáo thực hiện cấu thành tội cướp tài sản theo khoản 1 Điều 168 Bộ luật Hình sự năm 2015. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo theo khoản điểm d khoản 2 Điều 168 Bộ luật Hình sự năm 2015 là chưa phù hợp, bất lợi cho bị cáo. Do vậy, cấp phúc thẩm có căn cứ giảm hình phạt cho bị cáo về tội Cướp tài sản như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa.

(ii) Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là bị cáo thành khẩn khai báo ăn năn hối cải, đã bồi thường thiệt hại kh c phục hậu quả, bị hại bãi nại, xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 đối với bị cáo là có căn cứ. Tuy nhiên, hồ sơ vụ án thể hiện bị cáo có ông, bà ngoại là người có công với cách mạng; bị cáo có cố ý giao cấu trái ý muốn của bị hại nhưng chưa thực hiện được hành vi giao cấu do nguyên nhân ngoài ý muốn của bị cáo nên thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt. Các tình tiết này cấp sơ thẩm chưa xem xét áp dụng cho bị cáo là thiếu sót. Do vậy, Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết này, giảm hình phạt cho bị cáo.

10. Bản án hình sự phúc thẩm số 315/2021/HS-PT ngày 15/7/2021 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử về tội “Hiếp dâm” đối với bị cáo Vàng A T do có kháng cáo của bị cáo Vàng A T

Nội dung sửa án 

Cấp sơ thẩm đã căn cứ vào mức hình phạt quy định tại khoản 3 Điều 141 Bộ luật hình sự, xem xét, cân nhắc tính chất mức độ đặc biệt nghiêm trọng hành vi phạm tội của bị cáo, đã dùng vũ lực để giao cấu trái với ý muốn của bị hại, làm cho bị hại tự sát; Cấp sơ thẩm cũng đã xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự làm căn cứ quyết định hình phạt đối với bị cáo là đúng pháp luật. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử thấy rằng, bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự, là người dân tộc thiểu số thuộc hộ nghèo, sinh sống tại vùng sâu, xa có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, trình độ văn hóa, nhận thức, hiểu biết pháp luật hạn chế, sau khi phạm tội đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã tác động gia đình bồi thường thiệt hại cho bị hại và được bị hại xin giảm hình phạt; bị cáo bị truy tố, xét xử với tình tiết định khung "làm nạn nhân tự sát” quy đinh tại điểm c khoản 3 Điều 141 Bộ luật hình sự nhưng do được cấp cứu kịp thời nên bị hại không chết cũng phần nào làm giảm hậu quả của hành vi phạm tội; vì vậy Hội đồng xét xử sẽ chấp nhận kháng cáo của bị cáo, xử phạt bị cáo mức hình phạt khởi điểm của khung hình phạt được quy định tại khoản 3 Điều 141 Bộ luật hình sự cũng đủ tác dụng giáo dục, răn đe đối với bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội, đồng thời thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

Góp ý