Người đưa thông tin thất thiệt (tin vịt) lên mạng xã hội sẽ bị xử phạt thế nào?

Người đưa thông tin thất thiệt (tin vịt) lên mạng xã hội sẽ bị xử phạt thế nào?

Người đưa thông tin thất thiệt (tin vịt) lên mạng xã hội sẽ bị xử phạt thế nào?

Luật sư cho tôi hỏi: Vừa qua tôi thấy một người đăng tải lên Facebook thông tin về việc một trường học bị sập, gây hoang mang trong cộng đồng. Tuy nhiên sau đó cơ quan chức năng xác nhận đây là thông tin sai sự thật. Trong trường hợp này, người đăng tin có thể bị xử lý như thế nào theo quy định pháp luật? Có bị phạt hành chính hay truy cứu trách nhiệm hình sự không ạ?

MỤC LỤC

1. Người đưa thông tin thất thiệt (tin vịt) lên mạng xã hội có vi phạm pháp luật không?

2. Mức xử phạt đối với hành vi đưa thông tin thất thiệt (tin vịt) lên mạng xã hội

2.1. Xử phạt về hành chính

2.2. Xử phạt về hình sự

 

Trả lời:

1. Người đưa thông tin thất thiệt (tin vịt) lên mạng xã hội có vi phạm pháp luật không?

Căn cứ theo điểm d khoản 1 Điều 8 Luật An ninh mạng 2018 quy định về các hành vi bị nghiêm cấm trong an ninh mạng như sau:

Điều 8. Các hành vi bị nghiêm cấm về an ninh mạng

1. Sử dụng không gian mạng để thực hiện hành vi sau đây:

d) Thông tin sai sự thật gây hoang mang trong Nhân dân, gây thiệt hại cho hoạt động kinh tế - xã hội, gây khó khăn cho hoạt động của cơ quan nhà nước hoặc người thi hành công vụ, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác;

….”

Theo đó hành vi bịa đặt, lan truyền thông tin sai sự thật (tin vịt) lên mạng xã hội là hành vi bị nghiêm cấm và vi phạm pháp luật, tùy thuộc tính chất, mức độ vi phạm, người thực hiện hành vi có thể bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

2. Mức xử phạt đối với hành vi đưa thông tin thất thiệt (tin vịt) lên mạng xã hội

2.1. Xử phạt về hành chính

* Trường hợp: Đối với cá nhân có hành vi sử dụng mạng xã hội để tạo ra, cố ý lan truyền, bịa đặt thông tin sai sự thật căn cứ theo điểm a khoản 1 Điều 101 Nghị định 15/2020/NĐ-CP được sửa đổi Tên bởi khoản 37 Điều 1 Nghị định 14/2022/NĐ-CP quy định như sau:

Điều 101. Vi phạm các quy định về trách nhiệm sử dụng dịch vụ mạng xã hội; trang thông tin điện tử được thiết lập thông qua mạng xã hội

1. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với hành vi lợi dụng mạng xã hội để thực hiện một trong các hành vi sau:

a) Cung cấp, chia sẻ thông tin giả mạo, thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân;

…”

* Trường hợp: Đối với các trang tin điện tử, hành vi đưa thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự và nhân phẩm của cá nhân căn cứ theo điểm a khoản 3 Điều 99 Nghị định 15/2020/NĐ-CP quy định như sau:

Điều 99. Vi phạm quy định về trang thông tin điện tử

3. Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:

a) Đưa thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự và nhân phẩm của cá nhân;

…”

* Trường hợp: Đối với tổ chức, doanh nghiệp thiết lập mạng xã hội. Hành vi chủ động lưu trữ, truyền đưa thông tin giả mạo, thông tin sai sự thật, vu khống, xuyên tạc, xúc phạm uy tín của tổ chức và danh dự, nhân phẩm của cá nhân; chủ động lưu trữ, truyền đưa thông tin bịa đặt, gây hoang mang trong nhân dân căn cứ theo điểm a khoản 3 Điều 100 Nghị định 15/2020/NĐ-CP quy định như sau:

Điều 100. Vi phạm các quy định về trách nhiệm của tổ chức, doanh nghiệp thiết lập mạng xã hội

3. Phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 70.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:

a) Chủ động lưu trữ, truyền đưa thông tin giả mạo, thông tin sai sự thật, vu khống, xuyên tạc, xúc phạm uy tín của tổ chức và danh dự, nhân phẩm của cá nhân;

…”

Như vậy, hành vi phát tán thông tin sai lệch trên mạng xã hội đều bị xử lý nghiêm theo quy định pháp luật, tùy theo tính chất và đối tượng vi phạm.

2.2. Xử phạt về hình sự

* Trường hợp: Đối với người có hành vi làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm có nội dung bịa đặt, gây hoang mang trong nhân dân căn cứ theo Điều 117 Bộ luật Hình sự 2015 quy định như sau:

Điều 117. Tội làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

1. Người nào có một trong những hành vi sau đây nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm:

a) Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm có nội dung xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân;

b) Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm có nội dung bịa đặt, gây hoang mang trong nhân dân;

c) Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm gây chiến tranh tâm lý.

2. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 20 năm.

3. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.”

* Trường hợp: Đối với người có hành vi sử dụng mạng máy tính hoặc mạng viễn thông, phương tiện điện tử bịa đặt hoặc lan truyền những điều biết rõ là sai sự thật, nhằm xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác căn cứ theo Điều 156 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 quy định:

“Điều 156. Tội vu khống

1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:

a) Bịa đặt hoặc loan truyền những điều biết rõ là sai sự thật nhằm xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác;

b) Bịa đặt người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm:

a) Có tổ chức;

b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

c) Đối với 02 người trở lên;

d) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh cho mình;

đ) Đối với người đang thi hành công vụ;

e) Sử dụng mạng máy tính hoặc mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội;

g) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;

h) Vu khống người khác phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:

a) Vì động cơ đê hèn;

b) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;

c) Làm nạn nhân tự sát.

4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”

* Trường hợp: Đối với người Nếu có hành vi đưa lên mạng máy tính, mạng viễn thông những thông tin trái với quy định của pháp luật để thu lợi bất chính từ 50 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng hoặc gây thiệt hại từ 100 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng hoặc gây dư luận xấu, làm giảm uy tín của cơ quan, tổ chức, cá nhân thì có thể bị xử lý về tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin mạng máy tính, mạng viễn thông theo khoản 1 Điều 288 Bộ luật Hình sự 2015:

Điều 288. Tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin mạng máy tính, mạng viễn thông

1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, thu lợi bất chính từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng hoặc gây dư luận xấu làm giảm uy tín của cơ quan, tổ chức, cá nhân, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Đưa lên mạng máy tính, mạng viễn thông những thông tin trái với quy định của pháp luật, nếu không thuộc một trong các trường hợp quy định tại các Điều 117, 155, 156 và 326 của Bộ luật này;

b) Mua bán, trao đổi, tặng cho, sửa chữa, thay đổi hoặc công khai hóa thông tin riêng hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân trên mạng máy tính, mạng viễn thông mà không được phép của chủ sở hữu thông tin đó;

c) Hành vi khác sử dụng trái phép thông tin trên mạng máy tính, mạng viễn thông.

…”

Hành vi đưa tin sai sự thật lên mạng không chỉ bị xử phạt hành chính mà còn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu đủ yếu tố cấu thành tội phạm. Tùy theo tính chất, mục đích và hậu quả. Do đó, mọi cá nhân cần thận trọng và có trách nhiệm khi chia sẻ thông tin trên mạng xã hội.

Trân trọng./.

Bài viết liên quan

Góp ý