Những trường hợp đặc biệt nào được giảm thời hạn chấp hành hình phạt?

Những trường hợp đặc biệt nào được giảm thời hạn chấp hành hình phạt?

Những trường hợp đặc biệt nào được giảm thời hạn chấp hành hình phạt?

Luật sư cho tôi hỏi: Hàng xóm tôi cũng ngót nghét ngoài 70 vẫn phải chấp hành án phạt tù 3 năm vì tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Nhưng nghe bảo vì thuộc trường hợp đặc biệt nên được giảm thời hạn chấp hành hình phạt. Tôi thắc mắc không biết làm sao để được giảm như vậy, có phải đây là trường hợp đặc biệt hay không? Nhờ luật sư giải đáp giúp tôi.

MỤC LỤC

1. Quy định về những trường hợp đặc biệt được giảm thời hạn chấp hành hình phạt.

2. Khi nào thì được xem là đã lập công, đã quá già yếu, mắc bệnh hiểm nghèo?

Trả lời:

1. Quy định về những trường hợp đặc biệt được giảm thời hạn chấp hành hình phạt.

Tại Điều 64 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã quy định về việc giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù trong trường hợp đặc biệt như sau:

Điều 64. Giảm thời hạn chấp hành hình phạt trong trường hợp đặc biệt

Người bị kết án có lý do đáng được khoan hồng thêm như đã lập công, đã quá già yếu hoặc mắc bệnh hiểm nghèo, thì Tòa án có thể xét giảm vào thời gian sớm hơn hoặc với mức cao hơn so với thời gian và mức quy định tại Điều 63 của Bộ luật này.”

Tại Điều 6 Nghị quyết số 03/2024/NQ-HĐTP cũng đã hướng dẫn chi tiết quy định trên như sau:

Điều 6. Về giảm thời hạn chấp hành hình phạt trong trường hợp đặc biệt quy định tại Điều 64 của Bộ luật Hình sự

1. Người bị kết án đã chấp hành được ít nhất một phần tư thời hạn đối với hình phạt cải tạo không giam giữ, hình phạt tù từ 30 năm trở xuống; 10 năm đối với tù chung thân; 12 năm đối với người bị kết án về nhiều tội trong đó có tội bị kết án tù chung thân và có đủ điều kiện hướng dẫn tại các điểm b, c và d khoản 1, khoản 4, khoản 6 Điều 5 Nghị quyết này thì có thể được xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù, nếu người bị kết án thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Đã lập công; trong đó, mỗi lần lập công, người bị kết án chỉ được xét giảm thời hạn một lần;

b) Đã quá già yếu;

c) Mắc bệnh hiểm nghèo.

2. Mức giảm mỗi lần cao nhất cho các trường hợp hướng dẫn tại khoản 1 Điều này có thể là 01 năm đối với hình phạt cải tạo không giam giữ, 04 năm đối với hình phạt tù có thời hạn, hình phạt tù chung thân, nhưng phải bảo đảm thời gian thực tế chấp hành hình phạt ít nhất là hai phần năm mức hình phạt đã tuyên hoặc 15 năm đối với hình phạt tù chung thân; trường hợp người bị kết án về nhiều tội trong đó có tội bị kết án phạt tù chung thân thì thời gian thực tế chấp hành hình phạt ít nhất là 20 năm.

3. Trường hợp đặc biệt, khi có đề nghị của Bộ trưởng Bộ Công an hoặc Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; sau khi có ý kiến của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và được sự đồng ý của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao thì người bị kết án có thể được xét giảm vào thời gian sớm hơn hoặc với mức cao hơn so với hướng dẫn tại khoản 1 và khoản 2 Điều này.”

Như vậy, đối với trường hợp hàng xóm của bạn, để có thể được giảm thời hạn chấp hành hình phạt trong trường hợp đặc biệt thì phải đáp ứng các điều kiện sau:

- Đã chấp hành được ít nhất một phần tư thời hạn đối với hình phạt tù từ 30 năm trở xuống; 10 năm đối với tù chung thân; 12 năm đối với người bị kết án về nhiều tội trong đó có tội bị kết án tù chung thân;

- Có đủ điều kiện hướng dẫn tại các điểm b, c và d khoản 1, khoản 4, khoản 6 Điều 5 Nghị quyết số 03/2024/NQ-HĐTP (vừa nêu trên);

- Thuộc một trong các trường hợp sau:

+ Đã lập công; trong đó, mỗi lần lập công, người bị kết án chỉ được xét giảm thời hạn một lần;

+ Đã quá già yếu;

+ Mắc bệnh hiểm nghèo.

- Trường hợp đặc biệt, khi có đề nghị của Bộ trưởng Bộ Công an hoặc Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; sau khi có ý kiến của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và được sự đồng ý của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao thì người bị kết án có thể được xét giảm vào thời gian sớm hơn hoặc với mức cao hơn so với hướng dẫn tại khoản 1 và khoản 2 Điều 6 Nghị quyết số 03/2024/NQ-HĐTP.

2. Khi nào thì được xem là đã lập công, đã quá già yếu, mắc bệnh hiểm nghèo?

Đối với trường hợp lập công, tại khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 03/2024/NQ-HĐTP quy định như sau:

Điều 2. Về một số từ ngữ

2. “Lập công” quy định tại điểm a khoản 2, khoản 4 Điều 62, Điều 64 và khoản 2 Điều 105 của Bộ luật Hình sự là trường hợp người bị kết án có hành động giúp cơ quan nhà nước có thẩm quyền phát hiện, truy bắt, điều tra tội phạm; cứu, giúp được người khác trong tình thế hiểm nghèo hoặc cứu được tài sản có giá trị từ 50.000.000 đồng trở lên của Nhà nước, tập thể, cá nhân trong thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh, tai nạn hoặc sự kiện bất khả kháng khác; có sáng kiến, phát minh, sáng chế hoặc có thành tích xuất sắc trong lao động, học tập, chiến đấu, công tác được cơ quan nhà nước có thẩm quyền khen thưởng, xác nhận.”

Theo đó, để được xem là đã lập công, phạm nhân phải thuộc một trong những trường hợp sau:

- Có hành động giúp cơ quan nhà nước có thẩm quyền phát hiện, truy bắt, điều tra tội phạm;

- Cứu, giúp được người khác trong tình thế hiểm nghèo hoặc cứu được tài sản có giá trị từ 50.000.000 đồng trở lên của Nhà nước, tập thể, cá nhân trong thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh, tai nạn hoặc sự kiện bất khả kháng khác;

- Có sáng kiến, phát minh, sáng chế hoặc có thành tích xuất sắc trong lao động, học tập, chiến đấu, công tác được cơ quan nhà nước có thẩm quyền khen thưởng, xác nhận.

Đối với trường hợp đã quá già yếu, tại khoản 9 Điều 2 Nghị quyết số 03/2024/NQ-HĐTP quy định như sau:

Điều 2. Về một số từ ngữ

9. “Đã quá già yếu” quy định tại Điều 64 của Bộ luật Hình sự là người bị kết án thuộc một trong các trường hợp sau:

a) Từ đủ 70 tuổi trở lên;

b) Từ đủ 60 tuổi trở lên nhưng thường xuyên ốm đau, phải nằm điều trị tại bệnh viện liên tục từ 03 tháng trở lên hoặc không liên tục nhưng phải nằm điều trị tại bệnh viện từ 03 lần trở lên (mỗi lần từ 01 tháng trở lên), không có khả năng tự phục vụ bản thân, có kết luận bằng văn bản của Hội đồng giám định y khoa cấp tỉnh, cấp quân khu trở lên hoặc bệnh viện.”

Theo đó, để được xem là đã quá già yếu, phạm nhân phải thuộc một trong những trường hợp sau:

- Từ đủ 70 tuổi trở lên;

- Từ đủ 60 tuổi trở lên nhưng thường xuyên ốm đau, phải nằm điều trị tại bệnh viện liên tục từ 03 tháng trở lên hoặc không liên tục nhưng phải nằm điều trị tại bệnh viện từ 03 lần trở lên (mỗi lần từ 01 tháng trở lên), không có khả năng tự phục vụ bản thân, có kết luận bằng văn bản của Hội đồng giám định y khoa cấp tỉnh, cấp quân khu trở lên hoặc bệnh viện.

Đối với trường hợp mắc bệnh hiểm nghèo, tại khoản 4 Điều 2 Nghị quyết số 03/2024/NQ-HĐTP quy định như sau:

Điều 2. Về một số từ ngữ

4. “Mắc bệnh hiểm nghèo” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 62, Điều 64, khoản 2 Điều 105 của Bộ luật Hình sự là trường hợp người bị kết án đang bị bệnh nguy hiểm đến tính mạng, khó có phương thức chữa trị (ví dụ: ung thư giai đoạn cuối, nhiễm HIV đã chuyển giai đoạn lâm sàng IV, lao nặng độ 4 kháng thuốc, xơ gan cổ chướng, suy tim độ III trở lên, suy thận độ IV trở lên) hoặc mắc bệnh khác dẫn đến không có khả năng tự phục vụ bản thân, tiên lượng xấu, nguy cơ tử vong cao.”

Theo đó, để được xem là đã mắc bệnh hiểm nghèo, phạm nhân phải thuộc một trong những trường hợp sau:

- Đang bị bệnh nguy hiểm đến tính mạng, khó có phương thức chữa trị (ví dụ: ung thư giai đoạn cuối, nhiễm HIV đã chuyển giai đoạn lâm sàng IV, lao nặng độ 4 kháng thuốc, xơ gan cổ chướng, suy tim độ III trở lên, suy thận độ IV trở lên);

- Mắc bệnh khác dẫn đến không có khả năng tự phục vụ bản thân, tiên lượng xấu, nguy cơ tử vong cao.

Như vậy, về trường hợp của hàng xóm bạn, để được giảm thời hạn chấp hành hình phạt trong trường hợp đặc biệt thì họ đã thỏa mãn điều kiện được xem là “đã quá già yếu”, đồng thời thỏa mãn các điều kiện được quy định tại Điều 64 Bộ luật Hình sự năm 2015 và Điều 6 Nghị quyết số 03/2024/NQ-HĐTP.

Trân trọng./.

Góp ý