Bản án dân sự phúc thẩm số 161/2017/DSPT ngày 23/10/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ về việc tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

Nội dung hủy án:   

Về nguồn gốc thửa đất số 57, thì năm 2002 mẹ của bị đơn là bà Nguyễn Thị X đã được Ủy ban nhân dân thành phố Cần Thơ cấp phần đất này theo Giấy chứng nhận số 0030.QSDĐ cấp ngày 15/4/2002, theo nội dung trên giấy chứng nhận thì bà X có thửa đất 54 (630,5 m2), thửa 57 (604,2 m2) và thửa số 101 (134 m2) cùng tờ bản đồ số 35, ngày 14/02/2005 bà đã chuyển nhượng cho con là Nguyễn Thị C các thửa đất này và bà C được cấp thành 02 giấy chứng nhận, theo đó thửa 101 và thửa 57 được nhập lại thành một thửa số 57 đang tranh chấp có diện tích là 738,2 m2 theo Giấy chứng nhận số H002.QSDĐ ngày 04/02/2005 đã cấp cho bà C (Bút lục số 07,08, từ 30 đến 33 và từ 60 đến 64). Về đất tiếp giáp với thửa 57 đang tranh chấp, thì theo bản sao của Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 0030.QSDĐ cấp ngày 15/4/2002 đứng tên bà Nguyễn Thị L ghi nhận ngày 28/02/2008 bà L đã tặng cho ông Đặng Văn S các thửa đất số 55 (tờ bản đồ số 35) và thửa số 158 (tờ bản đồ số 51) có tổng diện tích là 1012,5 m2, trong đó có thửa đất số 55 (491 m2) của ông Đặng Văn S là thửa tiếp giáp thửa 57 đang tranh chấp.

Khi Tòa án cấp phúc thẩm đo đạc, thẩm định, xác minh đất tranh chấp thì nguyên đơn cho rằng một phần diện tích của thửa 57 (phần đất có ký hiệu B) là thuộc phần đất tại thửa số 55 của bà Nguyễn Thị L (bà L đã tặng cho ông Đặng Văn S thửa đất này) và theo các Công văn số 379/CNVPĐKĐĐ ngày 11/9/2017 và số 401/CNVPĐKĐĐ ngày 28/9/2017 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai quận P là do khi cấp giấy đất đã có sự chồng lấp giữa 02 giấy chứng nhận của bà L (mẹ ông Đặng Văn S) và bà X (mẹ bà Nguyễn Thị C) đối với phần đất có ký hiệu B (là phần đất có vị trí tại thửa số 101 của bà X đã cho bà C) theo thẩm định của Tòa án cấp phúc thẩm. Như vậy, án Tòa án cấp sơ thẩm đã bỏ sót chưa xác minh lý do vì sao phần đất thửa 57 bà C chuyển nhượng cho ông A, bà B hiện nay thực tế lại thiếu về diện tích và thiếu về kích thước, vì qua đo đạc của Tòa án cấp sơ thẩm thì diện tích thửa đất này chỉ còn 593,8 m2 và chiều dài hai cạnh của thửa đất chỉ còn 33,25 mét và 29,25 mét, trong khi trên sơ đồ giấy đất diện tích là 738,2 m2 và hai cạnh chiều dài là 41,4 mét (33,75m + 7.65m) và 34,85 mét (29,25m + 5,6m). Cũng theo nội dung công văn trên, thì hiện nay tại thửa đất 57 chủ sử dụng đã tự lấp diện tích con Rạch do Nhà nước quản lý để sử dụng và đã xây tường rào bao quanh nên lẽ ra diện tích và chiều dài thửa 57 phải nhiều hơn kích thước đã ghi trên giấy đất của bà C mới phù hợp, thậm chí theo bản sao trích bản đồ giải thửa mới nhất do cơ quan quản lý đất đai cung cấp có ghi nhận số liệu dã ngoại khi đo đạc để cấp giấy chứng nhận trước đây thì phần đất thửa 101 là của bà X (phần đất ký hiệu B) đây là thửa đất mà bà X đã cho bà C nhưng trên thực tế thửa 57 hiện nay lại giảm về diện tích và kích thước như trình bày trên, nội dung đơn kiện đã có tên bà Nguyễn Thị L là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án (Bút lục số 13) nhưng cũng không đưa người này tham gia tố tụng để làm rõ về đất tranh chấp.

Như phân tích trên, Tòa án cấp sơ thẩm chưa đưa ông Đặng Văn S tham gia tố tụng để làm rõ phần diện tích đất mà trước đây đã cấp chồng lấp (cùng một diện tích đất đều cấp cho hai gia đình: phần đất ký hiệu B) để làm rõ phần đất này là của ông Đặng Văn S hay là của gia đình phía bị đơn bà Nguyễn Thị C mà đã giải quyết bác yêu cầu khởi kiện là chưa có cơ sở, chưa đúng với các tình tiết khách quan của vụ án. Về những sai sót này, Tòa án cấp phúc thẩm không thể khắc phục nên phải hủy án sơ thẩm để giải quyết lại cho đúng pháp luật. Do hủy án sơ thẩm nên Hội đồng xét xử chưa có đủ cơ sở để xét nội dung kháng cáo của đương sự.

Góp ý