MỤC LỤC
1. Bản án dân sự phúc thẩm số 907/2018/HNGĐ-PT ngày 08/10/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về tranh chấp ly hôn
Nội dung hủy án:
Trong vụ án này, cấp sơ thẩm phải áp dụng Điều 180 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng theo quy định của Điều này mới đảm bảo quyền lợi cho đương sự, vì có căn cứ xác định là việc niêm yết công khai không đảm bảo cho người được cấp, tống đạt, thông báo nhận được thông tin về văn bản cần được cấp, tống đạt, thông báo.
Cấp sơ thẩm đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng mà cấp phúc thẩm không thể khắc phục được. Do đó, cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm và giao hồ sơ về cấp sơ thẩm giải quyết lại theo thủ tục chung.
2. Bản án hành chính phúc thẩm số 02/2025/HC-PT ngày 07/5/2025 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng về việc khiếu kiện hành vi hành chính và yêu cầu bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực quản lý Nhà nước về đất đai
Nội dung hủy án:
Như vậy, việc Tòa án cấp sơ thẩm vẫn tiến hành xét xử vụ án trong khi chưa tống đạt hợp lệ Quyết định tạm ngừng phiên tòa số 09/2024/QĐST-HC ngày 30/8/2024 cho những người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện và họ cũng không có mặt tham gia phiên tòa ngày 11/9/2024 của Tòa án nhân dân huyện Đức Trọng; trong khi đó những người này cũng không có đơn đề nghị xét xử vắng mặt là vi phạm thủ tục tố tụng, ảnh hưởng quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện.
Ngoài ra, tại Bản án hành chính sơ thẩm số 01/2024/HC-ST ngày 11/9/2024 của Tòa án nhân dân huyện Đức Trọng đã ghi tại phiên tòa người khởi kiện và người đại diện theo ủy quyền đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do. Đây không phải là phiên tòa lần thứ nhất nên lẽ ra trường hợp này Hội đồng xét xử phải đình chỉ giải quyết vụ án theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 143 và điểm a khoản 2 Điều 157 của Luật Tố tụng hành chính. Tuy nhiên Tòa án cấp sơ thẩm vẫn đưa vụ án ra xét xử là không đúng quy định của pháp luật.
3. Bản án dân sự phúc thẩm số 89/2020/DS-PT ngày 06/7/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang về tranh chấp quyền sử dụng đất
Nội dung hủy án:
(i) Về việc thu thập lời khai của đương sự: Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, các văn bản đều thể hiện NLQ5 vắng mặt, tại phiên tòa NLQ5 cũng được xét xử vắng mặt (Biên bản phiên tòa - BL 165, Biên bản nghị án - BL 171-173, Bản án - BL 183) nhưng trong phần bản án (BL 183) ghi: “Tại phiên tòa NLQ5 thống nhất theo lời trình bày của bà Ẩ, ông không có ý kiến gì bổ sung thêm”. Việc ghi nhận lời khai của NLQ5 thống nhất với lời khai của bà Ẩ là không khách quan. Bởi lẽ NLQ5 vắng mặt không trình bày lời khai, hơn nữa quyền lợi giữa NLQ5 với bà Ẩ (nguyên đơn) đang bị đối lập nhau.
(ii) Về thủ tục tống đạt: Xét thấy tại biên bản giao nhận “Thông báo mở lại phiên tòa” (BL 50, 156) được giao cho ông Y, bà V, NLQ5, NLQ3 chỉ giao cho 01 người nhận với chữ ký tên là “H” và có thể hiện “Hòa” là con NLQ3. Nhưng người nhận thay này không thể hiện có mối quan hệ như thế nào với ông Y, bà V, NLQ5, sau khi nhận có giao lại tận tay cho những người được nhận thay hay không. Do thủ tục tống đạt không bảo đảm cho các đương sự tham gia phiên tòa, nhưng Tòa án xét xử vắng mặt là ảnh hưởng đến quyền lợi của các đương sự.
(iii) Tình tiết mới phát sinh sau khi xét xử sơ thẩm như sau: NLQ5 chuyển nhượng nhà đất cho ông Đoàn Bá D và được chỉnh lý biến động sang tên trên giấy chứng nhận cho ông D vào ngày 30/12/2019. Đến ngày 16/3/2020 ông D đã chuyển nhượng nhà đất lại cho ông Nguyễn Văn Ng và được chỉnh lý biến động sang tên trên giấy chứng nhận cho ông Ng vào ngày 27/4/2020.
(iv) Đối với nguồn gốc đất của bà Trần Thị Ngọc Ẩ là do nhận chuyển nhượng của ông Bùi Hữu N và bà Lý Cuối Ph vào ngày 17/02/2003, phần đất có diện tích 146,20m2, tờ bản đồ số 74, thửa số 299 theo giấy CNQSD đất cấp cho ông N, bà Ph vào ngày 23/02/2003 (BL 73) và được chỉnh lý biến động sang tên cho bà Ẩvào ngày 03/6/2003. Theo sơ đồ thửa đất thể hiện phần đất có cạnh ngang là 12m x dài 12,5m tọa lạc tại đường QT, khu phố VTT, phường VQ, thành phố RG, tỉnh Kiên Giang. Đối với nguồn gốc đất của ông Y, bà V là do nhận chuyển nhượng của bà Nguyễn Thị T theo hợp đồng chuyển nhượng ngày 24/12/2004 được UBND phường VQ chứng thực, diện tích đất 96m2, tờ bản đồ số 74, thửa đất số 414 (trong hợp đồng chuyển nhượng có thể hiện phần đất nằm trong giấy CNQSD đất số W 751614 cấp cho bà T, ngày 09/01/2004 - BL 13). Đến ngày 03/02/2005 thì ông Y, bà Ẩ được cấp giấy CNQSD đất, theo sơ đồ thửa đất bà T xin chuyển nhượng cho ông Yên thì phần đất có chiều ngang 08m x dài 12m (BL 10, 14). Căn cứ theo lời khai của bà Ẩ tại thời điểm bà nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì có cặm trụ và làm hàng rào, còn bà V khai bà đã nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất của bà T từ năm 1998, nhưng thực tế cho đến năm 2004 giữa bà T với bà V ông Y mới làm hợp đồng chuyển nhượng. Do cấp sơ thẩm chưa xác minh, làm rõ hiện trạng đất và tài sản gắn liền trên đất (nhà, tài sản khác...). Vì vậy, không có cơ sở xác định được nguồn gốc phần đất tranh chấp từ trước đến nay do ai sử dụng.
(v) Đến ngày 30/12/2019 trên giấy CNQSD đất của NLQ5 được chỉnh lý biến động sang tên cho ông Đoàn Bá D. Tòa án cấp sơ thẩm không đưa ông D vào tham gia tố tụng trong vụ án với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là có vi phạm nhưng do yếu tố khách quan (vì sau khi xét xử sơ thẩm 03 ngày, thì mới chỉnh lý biến động sang tên cho ông D). Tuy nhiên, tại phiên tòa sơ thẩm không thể hiện Hội đồng xét xử có kiểm tra quyền sử dụng đất của các đương sự có bị thay đổi hay không, là chưa bảo đảm cho việc xét xử được chính xác.
(vi) Trong thời gian thụ lý phúc thẩm, ông Đoàn Bá D đã chuyển nhượng nhà đất nêu trên cho ông Nguyễn Văn Ng vào ngày 16/3/2020 và đã được chỉnh lý biến động sang tên từ ông D sang cho ông Ng vào ngày 27/4/2020 (Theo lời khai của ông Nguyễn Văn Ng tại cấp phúc thẩm). Đây là tình tiết mới phát sinh tại cấp phúc thẩm.
(vii) Về việc NLQ4 được đứng tên trên giấy CNQSD đất số BN 722759 ngày 23/02/2013, diện tích đất 60m2, thửa số 414, tờ bản đồ số 74, theo sơ đồ thửa đất thể hiện cạnh chiều ngang là 05m x dài 12m, tọa lạc tại đường QT, phường VQ, thành phố RG, tỉnh Kiên Giang. Theo lời khai của NLQ3 thì quyền sử dụng đất là do ông Y bà V tặng cho lại NLQ4 ngày 23/12/2013 (BL 183 - bản án), còn ông Y thì khai rằng đã cho NLQ4 trước khi bà Ẩ tranh chấp. Như vậy, cấp sơ thẩm không xác minh làm rõ và thu thập chứng cứ, chứng minh ông Y bà Ẩ đã hợp đồng tặng cho NLQ4 quyền sử dụng đất vào thời gian nào là có thiếu sót.
Vào ngày 26/01/2018 bà Bích hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho NLQ3 (do NLQ4 ủy quyền cho ông Trần Thanh T chuyển nhượng). Vào ngày 16/01/2019 NLQ3 được cấp giấy CNQSD đất (BL 115). Hiện nay nhà đất này do gia đình NLQ3 đang sử dụng.
(viii) Tại bản án sơ thẩm, Hội đồng xét xử có nhận định :”ngày 06/5/2016 Tòa án lập đoàn xem xét thẩm định tại chỗ đối với phần đất tranh chấp...” (BL 185). Tuy nhiên, trong hồ sơ không có biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 06/5/2016 như nêu trên, mà chỉ có biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 10/5/2016 và tại biên bản này có thể hiện trên phần đất tranh chấp có “tường” (BL 64), tại phiên tòa phúc thẩm bà Vân khai trên đất bà đã cất nhà từ năm 1998. Do biên bản không thể hiện đầy đủ hiện trạng tài sản trên đất tranh chấp và không tiến hành định giá tài sản trên phần đất tranh chấp, nên cấp phúc thẩm không xem xét đánh giá và vấn đề này không thể khắc phục được.
(ix) Ngoài ra, bản án sơ thẩm chỉ căn cứ vào Công văn của NLQ1, cho rằng quyền sử dụng đất do đo đạc chưa chính xác nên không có căn cứ giải quyết tranh chấp cho các bên đương sự là thiếu cơ sở.
(x) Trong hồ sơ không có tài liệu xác minh căn nhà được xây dựng từ khi nào? Có nằm trên phần đất tranh chấp hay không?. Nguồn gốc đất, quá trình sử dụng, mốc giới tứ cận của thửa đất bà Ẩn sau khi nhận chuyển nhượng; hiện trạng thửa đất do ông Y bà V sử dụng từ trước đến nay như thế nào. Sau khi ông Y tặng cho NLQ4, NLQ4 chuyển nhượng cho NLQ3, thì sau đó NLQ4 NLQ3 có làm thay đổi hiện trạng thửa đất hay không, có xây dựng công trình mới hay không...Ngoài ra, NLQ1 trả lời đất thiếu là do đo đạc không chính xác (BL 48), nhưng lại khẳng định trình tự thủ tục cấp giấy là đúng (BL 48). Như vậy, khi cấp giấy CNQSD đất cho các đương sự trong vụ án và các đương sự có liên quan thì có đo đạc diện tích đất thực tế sử dụng hay không, các hộ có ký giáp ranh hay không? Việc đo đạc không chính xác là do lỗi của cơ quan đo đạc hay của người sử dụng đất kê khai không đúng thực tế...Do Tòa án cấp sơ thẩm chưa xác minh làm rõ, không thu thập hồ sơ cấp giấy chứng nhận cho các bên đương sự mà đã quyết định không chấp nhận đơn khởi kiện của bà Ẩ là thiếu căn cứ và chưa chính xác.
(xi) Ngoài ra, vụ án được thụ lý ngày 20/02/2012 nhưng cấp sơ thẩm lại áp dụng theo Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án để buộc bà Ẩn phải nộp số tiền án phí 300.000 đồng là không phù hợp. Bởi lẽ, theo quy định tại Điều 48 của Nghị quyết này quy định áp dụng về án phí khi các đương sự thuộc trường hợp không phải chịu hoặc được miễn, giảm án phí, lệ phí Tòa án.
4. Bản án dân sự phúc thẩm số 232/2024/DS-PT ngày 19/9/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang về việc đòi lại tài sản từ hợp đồng dịch vụ môi giới bất động sản
Nội dung hủy án:
(i) Vào ngày 27/6/2023 Tòa án nhân dân thành phố Phú Quốc thụ lý vụ án tranh chấp hợp đồng dịch vụ giữa nguyên đơn Công ty Cổ phần Đ với bị đơn ông Trương Văn T1. Sau khi thụ lý, cấp sơ thẩm đã tiến hành niêm yết Thông báo thụ lý vụ án (BL 34, 35) và đến ngày 18/12/2023 thì tống đạt trực tiếp cho ông T1 (BL 36). Trong suốt quá trình tố tụng tiếp theo, thì các văn bản thủ tục đều được niêm yết cho ông Trương Văn T1. Lý do niêm yết là: “khi cán bộ Tòa án đến nhà ông Trương Văn T1 để tiến hành tống đạt văn bản tố tụng nhưng ông T1 thường xuyên vắng mặt”. Địa điểm niêm yết gồm: Nơi cư trú của ông Trương Văn T1, Trụ sở ban N1 và Ủy ban nhân dân xã D.
Tuy nhiên, Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ theo Điều 179 Bộ luật TTDS quy định các địa điểm niêm yết như sau: Niêm yết tại Trụ sở Tòa án, Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú (nơi cư trú cuối cùng), nơi cư trú của cá nhân (nơi cư trú cuối cùng). Mặc dù cấp sơ thẩm có niêm yết nhưng không niêm yết tại Trụ sở Tòa án là chưa đầy đủ. Hơn nữa, cấp sơ thẩm thực hiện thủ tục niêm yết tại ấp S, nhưng không lập biên bản xác minh ông Trương Văn T1 có nơi cư trú tại ấp S hay không, từ đó không có đủ cơ sở xác định nơi cư trú của ông T1. Theo các Biên bản: “Về việc không tống đạt được văn bản tố tụng” của Tòa án cấp sơ thẩm đều ghi rõ lý do: không tống đạt được là do khi cán bộ Tòa án đến nhà ông T1, nhưng ông T1 thường xuyên vắng mặt. Tuy nhiên, trên thực tế ông T1 không có nhà và cũng không sinh sống tại ấp S. Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn cũng xác nhận từ năm 2021 đến thời điểm khởi kiện thì ông T1 không có nhà và không có sinh sống ở ấp S. Đại diện Ban Lãnh đạo ấp Suối Lớn không cung cấp rõ thông tin về việc ông T1 không có nhà và không thường xuyên sinh sống ở ấp S mà vẫn xác nhận vào biên bản niêm yết, dẫn đến việc Tòa án niêm yết bị vi phạm.
Tại cấp phúc thẩm ông T1 cung cấp địa chỉ nơi thường xuyên sinh sống và làm việc của ông T1 là tại số F T, Khu phố G, phường D, thành phố P, tỉnh Kiên Giang và có nhà ở tại số Ô, Lô SS32 Khu ương mạ i"Thương Mại TM4, TM5 ấp Đ, xã D, thành phố P, tỉnh Kiên Giang. Địa chỉ này chưa được xác minh và chưa được cung cấp thông tin nên thủ tục niêm yết được thực hiện chưa đúng quy định.
(ii) Ngoài ra, căn cứ theo Biên bản làm việc với ông Huỳnh Công V1 là Phó Ban nhân dân ấp Suối Lớn ngày 04/5/2024 khai rằng: Bản án sơ thẩm là do ông Phù Tèn G là cán bộ tống đạt của Tòa án Phú Quốc niêm yết nhưng không niêm yết tại nhà ông T1 mà chỉ nhờ Ban N1 ký biên bản niêm yết rồi ra về (BL 117). Như vậy, cán bộ niêm yết là ông Phù Tèn G nhưng ông Hồ X là người ký tên vào biên bản là không phù hợp. Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn cũng thừa nhận từ trước năm 2021 thì ông T1 có ở ấp S, nhưng từ năm 2021 đến nay thì ông T1 không còn sinh sống ở ấp S nữa. Như vậy, ông T1 không còn cư trú ở địa phương trước khi nguyên đơn khởi kiện, nhưng chưa được xác minh đầy đủ mà vẫn niêm yết tại địa chỉ cũ, nên thủ tục niêm yết chưa được bảo đảm, từ đó làm ảnh hưởng đến quyền lợi và nghĩa vụ của ông T1 do không được tham gia tố tụng.
5. Bản án hành chính phúc thẩm số 595/2021/HC-PT ngày 17/11/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về việc khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai xử phạt vi phạm hành chính và cưỡng chế
Nội dung hủy án:
Như vậy, Bản án hành chính số 02/2021/HC-ST ngày 15 tháng 4 năm 2021 của Toà án nhân dân huyện B tống đạt cho Người bị kiện (vào ngày 06/5/2021) có sai sót là thiếu nội dung: “Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu tuyên hủy Thông báo số 3114/TB-UBND ngày 19/9/2019 về việc đề nghị hộ bà Võ Thị Hồng Đ di dời tài sản và bàn giao mặt bằng đối với phần đất do Nhà nước trực tiếp quản lý của Ủy ban nhân dân xã P, huyện B.”
6. Bản án hành chính phúc thẩm số 05/2018/HC-PT ngày 23/4/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai về việc khiếu kiện quyết định hành chính về thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Nội dung hủy án:
(i) Tại cấp phúc thẩm, Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai tiến hành thủ tục tống đạt Thông báo thụ lý vụ án, giấy triệu tập đương sự, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa, Quyết định tạm ngừng phiên tòa đều tống đạt không thành công cho bà Phạm Thị A, ông Nguyễn Văn H5, ông Nguyễn Mạnh T5.
(ii) Qua xác minh cho thấy, bà A đã bán nhà, bỏ địa phương đi từ năm 2016, từ trước khi Tòa án sơ thẩm xét xử, hiện nay Chính quyền địa phương không biết bà A chuyển đi cư trú ở đâu. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm đã không tống đạt thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và đối thoại, thông báo hoãn phiên họp về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và đối thoại cho bà A. Khi tống đạt Quyết định xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa cho bà A, Tòa án cấp sơ thẩm đều xác định địa chỉ nơi bà A cư trú là khu phố 1, phường T1, thành phố B, tỉnh Đồng Nai và giao cho bà Nguyễn Thị Thanh H1 (địa chỉ: đường B, khu phố S, phường T2, quận T3, thành phố Hồ Chí Minh) và ông Huỳnh Thanh D (địa chỉ: đường B, khu phố S, phường T2, quận T3, thành phố Hồ Chí Minh) cam kết giao lại (bút lục 598, 615), hai người này không cư trú cùng địa chỉ với bà A.
(iii) Đối với ông Nguyễn Mạnh T5, Tòa án nhân dân thành phố Bà Rịa Vũng Tàu đã thực hiện nội dung ủy thác của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai và xác minh nơi cư trú của ông T5 tại địa chỉ đường T, phường S (nay là phường T9), thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Tuy nhiên ông T5 đã bỏ đi khỏi địa chỉ trên khoảng 6-7 năm, không rõ địa chỉ đến. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm vẫn giải quyết vụ án và không tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho ông T5. Cụ thể, các thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và đối thoại, Tòa án cấp sơ thẩm đã không tống đạt cho ông T5 (bút lục 513, 524, 568), thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và đối thoại, Quyết định xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa Tòa án cấp sơ thẩm giao cho ông Huỳnh Thanh D (địa chỉ: đường B, khu phố S, phường T2, quận T3, thành phố Hồ Chí Minh) và bà Nguyễn Thị Thanh H1 (địa chỉ: đường B, khu phố S, phường T2, quận T3, thành phố Hồ Chí Minh) cam kết giao lại (bút lục 584, 599, 616), hai người này không cư trú cùng địa chỉ với ông T5.
Việc bà A và ông T5 bỏ đi khỏi nơi cư trú và không thông báo cho Tòa án biết về địa chỉ mới thì Tòa án cấp sơ thẩm lẽ ra phải xác minh đồng thời thực hiện thủ tục niêm yết công khai hoặc thủ tục thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng theo quy định tại khoản 3 Điều 177 BLTTDS. Do đó việc Tòa án cấp sơ thẩm không tống đạt và tống đạt cho ông D, bà H1 là những người không cùng nơi cư trú nhận thay và cam kết giao lại là vi phạm thủ tục cấp tống đạt cho đương sự quy định tại khoản 5 Điều 177 BLTTDS.
(iv) Đối với ông Nguyễn Văn H5, khi Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai tống đạt Thông báo thụ lý cho ông H5 thì được biết ông H5 đã chết và gia đình từ chối nhận thay. Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai đã tiến hành xác minh và được UBND xã N, huyện N1, tỉnh Nam Định cung cấp giấy chứng tử của ông Nguyễn Văn H5 đã chết từ ngày 26/8/2014. Tuy nhiên trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm vẫn giải quyết vụ án và không tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho ông H5. Cụ thể, các thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và đối thoại, Tòa án cấp sơ thẩm đã không tống đạt cho ông H5 (bút lục 513, 524, 568), thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và đối thoại, Quyết định xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa Tòa án cấp sơ thẩm giao cho ông Huỳnh Thanh D (địa chỉ: đường B, khu phố S, phường T2, quận T3, thành phố Hồ Chí Minh) và bà Nguyễn Thị Thanh H1 (địa chỉ: đường B, khu phố S, phường T2, quận T3, thành phố Hồ Chí Minh) cam kết giao lại (bút lục 585, 600, 617), hai người này không cư trú cùng địa chỉ với ông H5. Tòa án cấp sơ thẩm đã không tống đạt văn bản và tống đạt không hợp lệ là giao cho ông D, bà H1 là những người không cùng nơi cư trú nhận thay và cam kết giao lại cho ông H5 nên không phát hiện việc ông H5 đã chết để đưa những người thừa kế của ông H5 vào tham gia tố tụng với tư cách là người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông.
(v) Yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện là đối với Quyết định số 7871 ngày 08/10/2012 của UBND huyện V về việc hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và Quyết định số 7872 ngày 08/10/2012 của UBND huyện V về việc thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Ngày 13/7/2017 UBND huyện V ban hành Quyết định số 3177 về việc thu hồi Quyết định 7871 ngày 08/10/2012 của UBND huyện V. Lý do thu hồi: nội dung của Quyết định số 7871/QĐ-UBND không phù hợp với quy định pháp luật tại thời điểm Quyết định được ban hành. Tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện ông D vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Do đó khi xét xử Tòa án cấp sơ thẩm phải xem xét trình tự, thủ tục, thẩm quyền ban hành cả ba quyết định trên. Việc cấp sơ thẩm chỉ xem xét và giải quyết bác yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện với hai Quyết định 7871 và 7872 là vi phạm khoản 1 Điều 6 Luật tố tụng hành chính, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
(vi) Về thu thập chứng cứ: tại cấp phúc thẩm, người khởi kiện khiếu nại việc trưng cầu giám định của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đồng Nai; khiếu nại biên bản giám định của Cơ quan điều tra và đề nghị giám định lại: Việc có hay không có kết luận giám định và những mâu thuẫn trong quá trình tiến hành giám định màbà T đã nêu trong đơn khiếu nại là những tình tiết và những chứng cứ quan trọng cần phải được xác minh, thu thập tại Tòa án cấp sơ thẩm dù có hay không có yêu cầu của đương sự, bởi lẽ đây là những chứng cứ dùng làm căn cứ để UBND huyện thu hồi giấy chứng nhận QSD đất đã cấp cho người khởi kiện. Tòa án cấp sơ thẩm còn phải làm rõ hiệu lực của Quyết định giải quyết việc dân sự về việc tuyên bố người mất năng lực hành vi dân sự của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa đối với ông Nguyễn Mạnh H, do hồ sơ ông Đ cung cấp thể hiện quyết định chưa có hiệu lực pháp luật (bút lục 104-105). Đồng thời cần làm rõ có hay không có quyết định, bản án có hiệu lực pháp luật tuyên bố các giao dịch dân sự gồm hợp đồng ủy quyền giữa ông H với bà H1, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà H1 với ông Nguyên Văn T6, văn bản thỏa thuận phân chia di sản giữa ông T6 và các con ngày 13/5/2009 bị vô hiệu hay có hiệu lực pháp luật mới có đủ căn cứ vững chắc khẳng định UBND thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho bà T là đúng hay sai.
7. Bản án hành chính phúc thẩm số 03/2019/HC-PT ngày 16/4/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai về việc khiếu kiện quyết định hành chính về việc thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Quyết định hủy phương án bồi thường, hỗ trợ đất; Quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ do thu hồi đất; Hành vi hành chính về việc không giải quyết khiếu nại, tố cáo, hành vi không trả tiền hỗ trợ đất và yêu cầu bồi thường thiệt hại
Nội dung hủy án:
(i) Như vậy, trong vụ việc khiếu kiện này, Quân khu B là đơn vị quản lý và Trung đoàn EC thuộc Sư đoàn FB - Quân chủng Phòng không Không quân là đơn vị trực tiếp sử dụng diện tích đất trên là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án. Tòa án cấp sơ thẩm phải xác minh tư cách pháp nhân của các đơn vị trên để đưa vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, để các đơn vị trên có ý kiến đối với nguồn gốc hai diện tích đất 1.499,3m2 thuộc thửa 20, tờ bản đồ số 02, và diện tích đất 3.336,4m2 thuộc thửa 21, tờ bản đồ số 02, phường Q, thành phố B. Tòa án cấp sơ thẩm không đưa các đơn vị quân đội trên vào tham gia tố tụng là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
(ii) Về thu thập tài liệu, chứng cứ: Xét thấy, tài liệu, chứng cứ do các đương sự cung cấp và Tòa án thu thập là các bản vẽ, tờ bản đồ địa chính với hai diện tích đất 1.499,3m2 thuộc thửa 20, tờ bản đồ số 02, và diện tích đất 3.336,4m2 thuộc thửa 21, tờ bản đồ số 02, phường Q, thành phố B đều là bản photo, vi phạm quy định về xác định chứng cứ theo khoản 1 Điều 82 Luật tố tụng hành chính 2015 quy định: “Tài liệu đọc được coi là chứng cứ nếu là bản chính hoặc bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp ….”.
(iii) Trong quá trình kiểm tra, giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và đối thoại: Tòa án cấp sơ thẩm ban hành thông báo số 05/TB-TA ngày 05/7/2018 để mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và đối thoại vào ngày 30/7/2018, thông báo số 07/TB-TA ngày 16/8/2018 để mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và đối thoại ngày 04/9/2018, đáng lý ra Tòa án cấp sơ thẩm phải tống đạt hoặc thông báo hai văn bản tố tụng trên cho người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện là ông Hồ Bá M để ông M được biết và tham gia phiên họp, nhưng tại hồ sơ thể hiện là đến ngày 25/10/2018 sau khi nhận được Quyết định đưa vụ án ra xét xử thì ông M mới có đơn xin vắng mặt tại các buổi làm việc, phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và đối thoại theo quy định tại Điều 137 Luật Tố tụng hành chính là vi phạm thủ tục tố tụng. Đồng thời tại phiên tòa phúc thẩm, ông N và bà P là người khởi kiện cũng cho rằng trong quá trình giải quyết vụ án hành chính, Thẩm phán cấp sơ thẩm không tiến hành đối thoại, không mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ mà chỉ gọi điện thoại cho vợ chồng ông bà đến để ký vào các biên bản đã soạn sẵn, vấn đề này cấp sơ thẩm cũng chưa làm rõ. Tại đơn khởi kiện của ông N, bà P thì ngoài yêu cầu hủy các quyết định hành chính của UBND thành phố B bao gồm Quyết định số 2305/QĐ-UBND ngày 18/5/2012, Quyết định số 4359/QĐ-UBND ngày 15/8/2012, Quyết định số 4822/QĐ-UBND ngày 31/7/2013 ông N, bà P còn khởi kiện các hành vi hành chính của Chủ tịch UBND thành phố B như: Hành vi không giải quyết đơn thư khiếu nại tố cáo, hành vi không trả tiền hỗ trợ đất còn thiếu là 160.728.000đ, hành vi không thực hiện đúng Quyết định số 07/2007 của UBND tỉnh Đồng Nai quy định về trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, trả tiền trả chậm theo lãi suất ngân hàng Nhà nước quy định là 72.292.640đ, tiền phạt chậm trả tính đến ngày 20/11/2018 là 139.784.640đ, tiền bồi thường thiệt hại về tinh thần là 8.300.000đ. Trước khi mở phiên tòa sơ thẩm, ông N, bà P xin rút lại một phần yêu cầu khởi kiện đối với hành vi hành chính: yêu cầu tiền trả lãi chậm theo lãi suất ngân hàng là 72.292.640đ, tiền bồi thường thiệt hại về tinh thần là 8.300.000đ, hành vi không giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo, nhưng trong bản án sơ thẩm vẫn xác định quan hệ tranh chấp là “Khiếu kiện quyết định hành chính về việc thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Quyết định hủy phương án bồi thường, hỗ trợ đất; Quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ do thu hồi đất; Hành vi hành chính về việc không giải quyết khiếu nại, tố cáo, hành vi không trả tiền hỗ trợ đất và yêu cầu bồi thường thiệt hại” là không phù hợp, vượt quá yêu cầu khởi kiện của đương sự.
(iv) Trong đơn khởi kiện, ông N và bà P có yêu cầu giải quyết số tiền hỗ trợ đất còn thiếu là 160.728.000đ, nhưng trong phần quyết định của bản án sơ thẩm không xem xét giải quyết vấn đề này là bỏ sót yêu cầu khởi kiện của đương sự.
8. Bản án dân sự phúc thẩm số 847/2024/DS-PT ngày 25/9/2024 của Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh về việc đòi tài sản (Quyền sử dụng đất) và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Nội dung hủy án:
(i) Về việc nguyên đơn - ông T1, bà N cho rằng chưa được Tòa án cấp sơ thẩm tống đạt hợp lệ đến lần thứ 2 vào ngày 17/4/2024 nên không biết để tham dự phiên tòa nhưng Tòa án đã đình chỉ yêu cầu khởi kiện của ông bà là không đúng qui định của pháp luật tố tụng dân sự, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông bà.
(ii) Căn cứ Biên bản tống đạt (do bưu tá) ký giao cho bà Trần Thị H1 (chị ruột bà N) ký nhận thay nhưng không thể hiện bà H1 cam kết giao lại Quyết định hoãn phiên tòa cho nguyên đơn.
(iii) Tại đơn kháng cáo và tại phiên tòa phúc thẩm phía nguyên đơn cho rằng không được bà H1 giao lại Quyết định hoãn phiên tòa hay giấy triệu tập nên không biết thời gian để tham dự phiên tòa lần 2.
(iv) Căn cứ Điều 177 Bộ luật tố tụng dân sự 2015, thủ tục tống đạt trên của Tòa án cấp sơ thẩm là chưa đảm bảo nên việc Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ điểm c khoản 1 Điều 217 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 đình chỉ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là chưa đảm bảo thủ tục tố tụng.
(v) Tuy nhiên, kể cả trong trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm đình chỉ xét xử đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn (với lý do như đã nêu ở trên) và bị đơn vẫn không rút yêu cầu hủy quyết định cá biệt (giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho nguyên đơn) thì vụ án này phải được giải quyết theo thủ tục tố tụng hành chính. Việc Tòa án cấp sơ thẩm chỉ giải quyết mỗi yêu cầu hủy quyết định cá biệt theo thủ tục tố tụng dân sự là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
(vi) Mặt khác, về nội dung, Tòa án cấp sơ thẩm đã không xác minh, thu thập đầy đủ chứng cứ về nguồn gốc, quá trình sử dụng đất, hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; không có ý kiến của Ủy ban nhân dân thành phố L về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số cho nguyên đơn; không đánh giá đầy đủ tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ về quá trình địa phương làm việc, hòa giải, ghi nhận ý kiến của các bên trong quá trình các bên tranh chấp quyền sử dụng đất trước khi họ nộp đơn khởi kiện tại Tòa án mà đã chấp nhận yêu cầu của bị đơn, hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho nguyên đơn là không đủ căn cứ.
(vii) Ngoài ra, giữa các bên chỉ tranh chấp đối với phần diện tích đất 133,7m2 nhưng Tòa án cấp sơ thẩm đã hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với toàn bộ diện tích đất nguyên đơn được cấp 852m2 là không phù hợp.
(viii) Bị đơn, bà H không kháng cáo nhưng tại phiên tòa phúc thẩm bà H cũng đề nghị Tòa án xác minh, làm rõ về nguồn gốc đất, quá trình sử dụng đất. Nếu đất không phải của gia đình bà thì bà cũng đồng ý trả lại cho nguyên đơn.
9. Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 586/2023/KDTM-PT ngày 17/5/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa
Nội dung hủy án:
(i) Hồ sơ vụ án không thể hiện việc Tòa án tiến hành xác minh tình trạng cư trú của ông Lê Văn D tại 02 địa chỉ trên đồng thời tiến hành xác minh địa chỉ hoạt động mới của Công ty A để thực hiện việc tống đạt, niêm yết và các văn bản tố tụng là vi phạm thủ tục tố tụng, chưa đảm bảo quy định tại Điều 178 và Điều 179 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.
(ii) Căn cứ Điều 301 Luật Thương mại 2005 thì: “Mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm do các bên thoả thuận trong hợp đồng, nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm, trừ trường hợp quy định tại Điều 266 của Luật này”. Như vậy, hai công ty thỏa thuận mức phạt 12% tại Điều 7 và Điều 9 của Hợp đồng cung cấp số 10082021/HĐCC/DBP-A ngày 10/8/2011 là vượt quá quy định của pháp luật. Việc cấp sơ thẩm chấp nhận thỏa thuận của các bên với mức phạt 12% giá trị của hợp đồng mà không điều chỉnh lại cho phù hợp là vi phạm quy định pháp luật.
10. Bản án hôn nhân và gia đình phúc thẩm số 33/2023/HNGĐ-PT ngày 26/12/2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội về tranh chấp ly hôn, nuôi con
Nội dung sửa án:
(i) Xét kháng cáo của chị Bùi Phương T yêu cầu hủy bản án sơ thẩm, do trong quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định, chị đi lao động tại Nhật Bản nhưng Tòa án không ủy thác tống đạt các văn bản tố tụng cho chị nên chị không biết thông tin về việc giải quyết đơn xin ly hôn của anh Bùi Duy K là không đúng quy định, ảnh hưởng đến quyền lợi của chị và con chị. Tại phiên tòa phúc thẩm, chị T thay đổi nội dung kháng cáo không yêu cầu hủy bản án sơ thẩm, chỉ để nghị sửa bản án sơ thẩm, giao cho chị trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục con chung Bùi Tiểu V1. Về quan hệ hôn nhân, chị xác định tình cảm vợ chồng không còn nên đồng ý với bản án sơ thẩm, rút kháng cáo phần này.
(ii) Về con chung: Chị T kháng cáo yêu cầu giao cho chị trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục con chung Bùi Tiểu V1. Anh Bùi Duy K cũng yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Xét thấy, việc anh K, chị T cùng yêu cầu được nuôi dưỡng con chung là chính đáng. Xét điều kiện nuôi con của anh K và chị T, thấy anh chị đều có công việc, có thu nhập, có chỗ ở và có thời gian chăm sóc con nên đều đủ điều kiện để trực tiếp nuôi con. Tuy nhiên, cháu Bùi Tiểu V1 là con gái, tuổi còn nhỏ, cần sự chăm sóc trực tiếp từ mẹ nên để chị T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu V2 sẽ đảm bảo quyền lợi tốt hơn cho cháu. Do vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của chị T, sửa bản án sơ thẩm, giao cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cháu Thảo V3 đến tuổi trưởng thành hoặc đến khi có căn cứ thay đổi khác theo quy định.