Tổng hợp 10 bản án hủy, sửa về việc tranh chấp quyền sử dụng đất liên quan đến diện tích tăng thêm

MỤC LỤC

1. Bản án dân sự phúc thẩm số 228/2023/DS-PT ngày 29/12/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước về việc tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

2. Bản án dân sự phúc thẩm số 34/2023/DS-PT ngày 16/5/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ về việc tranh chấp chia di sản thừa kế và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

3. Bản án dân sự phúc thẩm số 532/2023/DS-PT ngày 27/10/2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội về việc tranh chấp quyền sử dụng đất

4. Bản án dân sự phúc thẩm số 512/2023/DS-PT ngày 23/10/2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội về việc tranh chấp quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

5. Bản án dân sự phúc thẩm số 524/2023/DS-PT ngày 01/8/2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh về việc tranh chấp quyền sử dụng đất

6. Bản án dân sự phúc thẩm số 82/2024/DS-PT ngày 30/9/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ về việc tranh chấp quyền sử dụng đất

7. Bản án dân sự phúc thẩm số 91/2024/DS-PT ngày 05/3/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh về việc tranh chấp quyền sử dụng đất

8. Bản án dân sự phúc thẩm số 206/2023/DS-PT ngày 06/10/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước về việc tranh chấp quyền sử dụng đất

9. Bản án dân sự phúc thẩm số 253/2023/DS-PT ngày 11/9/2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng về việc tranh chấp chia di sản thừa kế, tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu và hủy quyết định cá biệt

10. Bản án dân sự phúc thẩm số 180/2023/DS-PT ngày 25/7/2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng về việc tranh chấp quyền sử dụng đất

 

1. Bản án dân sự phúc thẩm số 228/2023/DS-PT ngày 29/12/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước về việc tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

Nội dung hủy án:

(i) Xác định không đúng và thiếu người tham gia tố tụng:

Cấp sơ thẩm xác định bà Thị P là người làm chứng là xác định chưa đúng tư cách người tham gia tố tụng.

Cấp sơ thẩm xác định bà Thị P là người làm chứng là chưa đúng với quy định tại Điều 68 BLTTDS làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích của bà Thị P , bởi lẽ:

Bà Thị P là mẹ của nguyên đơn ông Điểu T là người trực tiếp đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và cũng là người cùng ông Điểu Nghé (là chồng bà Pơr đã chết) ký hợp đồng tặng cho QSD đất cho ông Điểu T .

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án này là anh Điểu M trình bày vào 2010 cha mẹ ông là bà Thị P và ông Điểu Nghé có tặng cho Điều Tâm và Điểu M mỗi người một nửa diện tích đất trên tổng diện tích khoảng 18.000m2. Anh Điểu M đã quản lý sử dụng phần đất này đến ngày 25/6/2021 mới chuyển nhượng cho Ông Mai Xuân D . Hơn nữa bà Thị P có trình bày về nội dung tặng cho cơ bản như trình bày của Điểu M . Bà Pơr cũng có đơn kháng cáo nhưng không được cấp sơ thẩm chấp nhận với lý do bà Pơr là người làm chứng. Trong nội dung kháng cáo bà Pơr cũng có nêu rõ yêu cầu của mình, trong đó có yêu cầu hủy bỏ hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa ông Điểu Nghé bà Thị P và ông Điểu T tại Văn phòng công chứng Ngọc Huy. Vì vậy, cần phải xác định bà Pơr là người có quyền và nghĩa vụ liên quan mới phù hợp, đảm bảo quyền lợi ích hợp pháp của đương sự.

Cấp sơ thẩm không đưa ông Hoàng Trung Sửu và UBND huyện B vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là xác định còn thiếu người tham gia tố tụng.

- Quá trình giải quyết vụ án ông Hoàng Trung Sửu, sinh năm 1986, địa chỉ khu phố 1, phường Long Phước, thị xã Phước Long, tỉnh Bình Phước có đơn yêu cầu độc lập đề ngày 30/6/2023 gửi Toà án nhân dân huyện B đề nghị công nhận hợp đồng chuyển nhượng ngày 30/11/2022 giữa ông Hoàng Trung Sửu với vợ chồng bà Thuỷ, ông B và công nhận diện tích đất 18999,9m2 tọa lạc tại Thôn Đ, xã Ph, huyện B, tỉnh Bình Phước là của ông Sửu. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm đã trả lại đơn với lý do ông Sửa nộp đơn sau khi Tòa án đã hòa giải.

Nhận thấy, ông Sửu là chủ thể đang quản lý quyền sử dụng đất tranh chấp nên cần phải xác định đưa ông Sửu vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập mới mới phù hợp, đảm bảo quyền lợi ích hợp pháp của đương sự và mới giải quyết triệt để vụ án.

- Theo trình bày của đại diện của nguyên đơn, hợp đồng tặng cho ngày 21/8/2020 giữa ông Điểu Nghé bà Thị P tặng cho ông Điểu T theo giấy CNQSD đất (cũ) cấp ngày 26/6/2014 diện tích là 14984m2. Tuy nhiên, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sau khi tặng cho ông T đã thay đổi diện tích tăng thêm thành 18.999,9m2, diện tích tăng lên là 4015,9 m2. Bị đơn bà Thuỷ trình bày bà được uỷ quyền để đi làm hồ sơ, còn diện tích thế nào do cơ quan Nhà nước cơ quan quản lý đất đai điều chỉnh trong quá trình làm thủ tục tặng cho; nhưng phía nguyên đơn ông T và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là ông Dũng, ông Điểu M có phản đối cho rằng phần tăng lên này là do ý chí của bà Th chứ không phải theo ý chí của ông Điểu Nghé bà Thị P gộp. Vì vậy, cần thiết phải đưa UBND huyện B vào tham gia tố tụng để làm rõ trình tự, thủ tục cấp GCNQSĐ đất cho ông Điểu T và lý do có sự biến động lớn về diện tích so với diện tích trên giấy CNQSD đất (cũ) cấp ngày 26/6/2014.

(ii) Thiếu sót trong việc điều tra, thu thập, đánh giá chứng cứ.

- Ông Nguyễn Văn Phương - Ban tư pháp xã Phú Nghĩa trình bày (bút lục số 314) ông không trực tiếp ký xác nhận vào hợp đồng ủy quyền, chữ ký trong hợp đồng ủy quyền ngày 28/8/2023 giữa ông T và bà Th không phải do ông Phương ký nhưng cấp sơ thẩm chưa làm rõ nội dung này, cụ thể chưa cho các bên đối chất cũng như giám định chữ ký để làm rõ vì liên quan đến hiệu lực của hợp đồng ủy quyền là thu thập chứng cứ chưa đầy đủ.

- Trong quá trình giải quyết vụ án ông Điểu M trình bày, năm 2010 ông được cha mẹ cho đất sau đó đến năm 2018 thì ông Mít cho ông Nguyễn Văn Đan, sinh năm 1990 ở thôn Tân Lập, xã Phú Nghĩa, huyện B thầu 7 năm (2018 - 2025) với số tiền thầu là 19 triệu/năm. Cấp sơ thẩm chưa xác minh, làm rõ nội dung liên quan này là thu thập chứng cứ không đầy đủ.

- Theo trình bày của bà Pơr thì phần diện tích tăng thêm 4.015,9m sau khi thực hiện hợp đồng tặng cho ngày 21/8/2020 là phần đất chưa được cấp trong giấy CNQSD đất cũ. Tại phiên tòa phúc thẩm Ông Mai Xuân D trình bày khi nhận chuyển nhượng của ông Điểu M đất chưa có sổ đỏ; tuy nhiên đất đã có “ phôi”, tức đã có mảnh trích đo, cụ thể thuộc thửa 33, tờ bản đồ 55, diện tích là 9.522,8m2. Vì vậy, để có căn cứ giải quyết đúng đắn vụ án, cần phải thu thập đầy đủ tài liệu liên quan đến sự kiện trên.

Cụ thể có hay không hồ sơ tài liệu kê khai, đăng ký QSD đất của ông Điểu M , ông Điểu T (Sổ mục kê, Thông báo kê khai QSD đất...?)

Qua nội dung trình bày của bà Thị P , ông Điểu M , ông Hoàng Trung Sửu đã thể hiện rõ quyền lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm nhưng Tòa án cấp sơ thẩm từ chối tư cách tham gia tố tụng và không hướng dẫn cho họ thực hiện quyền yêu cầu độc lập của mình theo quy định thủ tục tố tụng; nên chỉ xem xét đến quan hệ tranh chấp Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Điểu T với ông Bằng, bà Th là giải quyết chưa toàn diện, triệt để vụ án

Từ những phân tích trên, nhận thấy cấp sơ thẩm có những vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng; cụ thể là thiếu sót về điều tra, thu thập chứng cứ, đánh giá chứng cứ mà tại cấp phúc thẩm không thể khắc phục được nên cần chấp nhận một phần kháng cáo của nguyên đơn ông Điểu T và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Ông Mai Xuân D hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 21/2023/DS-ST ngày 21/7/2023 của Tòa án nhân dân huyện B , tỉnh Bình Phước để giao hồ sơ cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.

2. Bản án dân sự phúc thẩm số 34/2023/DS-PT ngày 16/5/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ về việc tranh chấp chia di sản thừa kế và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

Nội dung hủy án 

(i) Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Đỗ Xuân L về việc hủy GCNQSD đất số đất số BD 725849 ngày 14/6/2011của UBND huyện Phù N cấp ông Đỗ Văn D và Lê Thị T là không đúng, bởi lẽ:

* Về nguồn gốc thửa đất số 49 tờ bản đồ 49 diện tích theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là 1675m2 trong đó: 300m2 đất ở, 1375m2 đất trồng cây lâu năm; diện tích đo đạc thực tế là 1995,7m2tại khu 4, xã Trung G, huyện Phù N, tỉnh Phú Thọ: Đương sự đều trình bày nguồn gốc thửa đất này là do cụ G, cụ Nguyễn Thị B khai hoang từ những năm 1959 - 1960 và ở trên thửa đất này cho đến khi các cụ chết.Năm 1990 cụ G chết không để lại di chúc, cụ B vẫn ở trên đất. Ngày 07/11/2005, cụ B được UBND huyện Phù N cấp GCNQSD đất số AD 671195 đối với thửa đất số 49, tờ bản đồ số 49 diện tích 1675m2.

Quá trình giải quyết vụ án, ông Đỗ Văn D nộp di chúc giao thừa kế di sản 14/10/2003 có nội dung thể hiện: Cụ Nguyễn Thị B lập di chúc giao ông Đỗ Văn D được hưởng tài sản là 1675m2 đất thổ cư, 5 gian nhà tre lợp ngói, 2 sào ruộng cấy 2 lúa tổng số 500m2 đất màu, 1 bộ trường kỷ cùng 8 giường và toàn bộ số cây cối trên đất thổ cư. Di chúc có hai người làm chứng là ông Đào Văn L1 và bà Hán Thị Đ. Hồ sơ vụ án thể hiện: Do có di chúc này nên 14/6/2011 ông Đỗ Văn D và Lê Thị T được UBND huyện Phù N cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 49, tờ bản đồ 49. * Việc cấp GCNQSD đất đứng tên ông D, bà T trên cơ sở di chúc của cụ B cho ông D. Tuy nhiên, bản án sơ thẩm đãxác địnhdi chúc giao di sản thừa kế ngày 14/10/2003 của cụ B là di chúc không hợp pháp. Thửa đất số 49, tờ bản đồ số 49 tại khu 4, xã Trung G, huyện Phù N, tỉnh Phú Thọ được xác định là tài sản chung của cụ G và cụ B. Cụ G chết không để lại di chúc. Năm 2003 cụ B lập di chúc để cho ông Đỗ Văn D được hưởng tài sản trong đó có toàn bộ thửa đất số 49, tờ bản đồ 49 khi không có sự đồng ý của những người thừa kế của cụ G; cụ B đã quyết định đối với cả phần di sản thừa kế của cụ G để lại là vượt quá quyền đối với tài sản. Hơn nữa, Về trình tự, thủ tục lập Di chúc ngày 14/10/2003: Bản Di chúc của cụ B được xác định là di chúc bằng văn bản (viết tay) nên theo quy định tại Điều 659 của BLDS 1995 thì “Trong trường hợp người lập di chúc không thể tự mình viết bản di chúc, thì có thể nhờ người khác viết, nhưng phải có ít nhất là hai người làm chứng. Người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt những người làm chứng; những người làm chứng xác nhận chữ ký, điểm chỉ của người lập di chúc và ký vào bản di chúc.Việc lập di chúc phải tuân theo quy định tại Điều 656 và Điều 657 của Bộ luật này”. Bản Di chúc có dấu điểm chỉ và có ghi là ngón trỏ phải của cụ Nguyễn Thị B và có chữ ký của 02 người làm chứng và có chứng nhận của UBND xã Trung G.Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm đã tiến hành lấy lời khai của 02 người làm chứng là ông Đào Văn L1 và bà Hán Thị Đ. Tại các Biên bản lấy lời khai của những người này đều thể hiện: Vào trưa ngày 14/10/2003, các ông bà có đến nhà ông D (khu 3, xã Trung G) để ký vào Bản Di chúc giao thừa kế di sản của cụ B, khi các ông bà ký vào bản Di chúc này thì trong bản Di chúc đã có dấu vân tay của cụ B. Các ông bà không được chứng kiến cụ B điểm chỉ vào Di chúc và cũng không biết ai là người viết Di chúc. Mặt khác bà Đ còn trình bày, bà không được nghe ai đọc nội dung của Di chúc và cũng không đọc Di chúc trước khi ký vào bản Di chúc tại mục người làm chứng, bà cũng không được chứng kiến ông Lợi ký vào bản Di chúc. Tại lời khai của ông Trần Tuấn A - Cán bộ Tư pháp UBND xã Trung G thời điểm đó cũng trình bày: Sau khi cụ B điểm chỉ vào Di chúc thì ông có mang bản Di chúc này sang nhà ông L1 và bà Đ để xin chữ ký, trước khi ông Lợi, bà Đường ký ông có đọc lại nội dung của bản Di chúc. Đồng thời sau khi mọi người ký tên vào bản Di chúc thì ông có mang bản Di chúc này về UBND xã Trung G để viết phần xác nhận của UBND xã và trình Chủ tịch UBND xã Trung G là ông Phan Tuấn A ký, đóng dấu.

Tại Biên bản xác minh ngày 26/4/2023 của Luật sư Trần Văn C thuộc công ty luật TNHH luật sư Vĩnh P tại UBND xã Trung G đối với ông Trần Tuấn A cho rằng lời khai tại TAND huyện Phù N là ông đưa bản di chúc của bà B đến nhà ông L1 và bà Đ xin chữ ký là không chính xác, ông cho rằng “ngày 14/10/2003 tôi có mặt nhà bà B và mời ông Lương Công L2 trưởng khu 4 tham dự có ông L1 làm chứng, khoảng một lúc sau bà Đ đến. Do bà B không biết chữ nên tôi đã hướng dẫn ông D viết bản di chúc, tôi đọc bản di chúc cho bà B và mọi người nghe và nhất trí với nội dung di chúc. Tôi trực tiếp lăn tay điểm chỉ của cụ B vào bản di chúc, sau đó hướng dẫn ông L1 ký, bà Đ đến sau tôi có hỏi có cần đọc lại bản di chúc không thì bà Đ nói không cần, nhưng tôi có tóm tắt lại nội dung di chúc cho bà Đ nghe sau đó bà Đ ký vào bản di chúc….” . Tại biên bản xác minh ngày 26/4/2023 ông L1 trình bày: Tại biên bản lấy lời khai 22/6/2021 tại tòa án huyện Phù N ông khai là “Khi tôi đến thì cụ đã điểm chỉ xong, tôi không thấy tận mắt..” lời khai này theo ông L1 là không chính xác. Ông L1 trình bày lại theo như ý kiến của ông Trần Tuấn A. Tại lời trình bày của bà Đường ngày 26/4/2023 thì bà Đường vẫn giữ nguyên các lời khai trước đây. Như vậy, lời khai của ông Lợi và ông Trần Tuấn Anh trước sau có sự mâu thuẫn với nhau, nhưng bà Đ trình bày vẫn giữ quan điểm như những lời khai trước đây tại TAND huyện Phù N. Như vậy, Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 655 của BLDS 1995 quy định một trong các điều kiện để di chúc hợp pháp là: “Nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của pháp luật”. Do đó, Di chúc bằng văn bản của cụ B ngày 14/10/2003 không đúng quy định của pháp luật về hình thức, trình tự, thủ tục lập Di chúc. Như vậy, căn cứ vào các quy định của pháp luật nêu trên thì có căn cứ để xác định Di chúc giao di sản thừa kế ngày 14/10/2003 của cụ B là di chúc không hợp pháp nên trường hợp này được coi là không có Di chúc. Do đó, khi cụ B chết thì thửa đất số 49, tờ bản đồ số 49 được xác định là di sản thừa kế do cụ G và cụ B để lại và được chia theo pháp luật là hoàn toàn phù hợp với quy định tại điểm a khoản 1 Điều 678 BLDS 1995 và khoản 1 Điều 650 của BLDS 2015.

* Về diện tích đất tăng thêm và hình dạng thửa đất: Theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thửa đất số 49, tờ bản đồ 49 tại khu 4, xã Trung G, huyện Phù N, tỉnh Phú Thọ có diện tích theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là 1675m2 trong đó 300m2 đất ở, 1375m2 đất trồng cây lâu năm; diện tích đo đạc thực tế là 1995,7m2 tức là tăng thêm 320,7m2. Theo xác minh tại địa phương thể hiện phần diện tích đất tăng thêm không xác định nằm tại vị trí cụ thể nào. Ngoài ra, hình dạng thửa đất số 49 tờ bản đồ 49 có sự khác nhau giữa bản đồ địa chính với sơ đồ thửa đất trong GCNQSD đất UBND huyện Phù N đã cấp cho ông D, bà T với kết quả xem xét thẩm định tại chỗ của TAND huyện Phù N.

Như vậy, ông L khởi kiện chia di sản thừa kế là thửa đất số 49 tờ bản đồ 49 tại khu 4, xã Trung G, huyện Phù N, tỉnh Phú Thọ là di sản của cụ G, cụ B để lại. Hiện nay, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đang đứng tên ông D, bà T và việc cấp giấy chứng nhận cho ông D, bà T là không đúng quy định của pháp luật, sơ đồ thửa đất kèm theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất khác so với kết quả thẩm định và diện tích thửa đất tăng 320,7m2. Tuy nhiên, bản án sơ thẩm nhận định: Sau khi bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật thì những người thừa kế được nhận di sản bằng hiện vật có nghĩa vụ liên hệ với Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để điều chỉnh biến động hoặc đề nghị cấp lại GCNQSD đất theo quyết định của bản án. Đồng thờiquyết định: Không chấp nhậnyêu cầu hủy GCNQSD đất số BD 725849 do UBND huyện Phù N cấp ngày 14/6/2011 đứng tên ông Đỗ Văn D và Lê Thị T là chưa đúng. Kháng nghị phúc thẩm không có nội dung về việc bản án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Đỗ Xuân L về việc hủy GCNQSD đất số BD 725849 ngày 14/6/2011 của UBND huyện Phù N cấp ông Đỗ Văn D và Lê Thị T là không đúng. Tuy nhiên, xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm vận dụng mục 2 phần II của Công văn 64/TANDTC-PC ngày 03/4/2019của Tòa án nhân dân tối cao nhưng trường hợp này chỉ là hợp đồng chuyển nhượng, chuyển đổi, tặng cho quyền sử dụng đất không phải là thừa.Do đó, cần thiết phải hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đấtsố BD 725849 ngày 14/6/2011 của UBND huyện Phù N cấp ông Đỗ Văn D và bà Lê Thị T. Theo quy định tại mục 7 phần IV Giải đáp số 02/TANDTC-PC ngày 02/8/2021 của TANDTC; khoản 4 Điều 34 BLTTDS và hướng dẫn tại phần II Giải đáp số 02/2016/GĐ-TANDTC ngày 19/9/2016 của TANDTC thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND tỉnh; Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết vụ án không đúng quy định của pháp luật do phải hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Thọ bổ sung nội dung đề nghị hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BD 725849 ngày 14/6/2011 của UBND huyện Phù N cấp ông Đỗ Văn D, Lê Thị T và thay đổi từ đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm từ sửa bản án dân sự sơ thẩm sang đề nghị hủy bản án dân sự sơ thẩm là có căn cứ cần được chấp nhận.

(ii) Bản án quyết định chia di sản thừa kế chưa đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự; chưa xem xét đến quyền lợi của anh Đỗ Minh T, chị Trần Thị Thanh H1. Quá trình giải quyết vụ án: Ông D không nhất trí chia di sản thừa kế. Ông H không nhất trí với yêu cầu khởi kiện của ông L; nếu phải chia di sản ông sẽ nhận di sản nhưng ông tặng cho ông D toàn bộ di sản mà ông được hưởng vì ông đã có đất bố mẹ cho rồi nhưng bản án sơ thẩm không giải quyết nội dung này. Ông L, bà L, ông S, bà N, bà N1 đề nghị chia di sản thừa kế của cụ G, cụ B để lại theo quy định của pháp luật và đều đề nghị được chia di sản bằng hiện vật. Bản án sơ thẩm quyết định: Chia di sản thừa kế cho ông D 863,3m2, thanh toán công sức trông nom quản lý khối di sản thừa kế cho vợ chồng ông D, bà T là 196,8m2 và tạm giao 320,7m2 đất vườn tăng thêm so với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Chia cho bà L, ông L, ông S, ông H mỗi người được hưởng bằng hiện vật hơn 200m2. Còn bà N1, bà N có nguyện vọng được chia thừa kế bằng hiện vật, chưa được bố mẹ tặng cho, quyền sử dụng đất đủ điều kiện để chia bằng hiện vật. Tuy nhiên, bà N1, bà N lại không được chia bằng hiện vật mà được thanh toán bằng tiền là chưa đảm bảo công bằng, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự.

Không những thế, hồ sơ vụ án thể hiện năm 2004, con ông Đỗ Văn D là anh T và chị H1 về ở trên thửa đất số 49, tờ bản đồ 49 tại khu 4, xã Trung G và làm một ngôi nhà nhỏ trên đất, ở cùng với cụ B. Sau đó đến năm 2010, vợ chồng anh T làm ngôi nhà to hơn trên thửa đất đứng tên cụ B. Khi anh T làm nhà, cụ B còn sống, không có ý kiến gì và ở cùng anh T ở trên ngôi nhà đó. Đương sự cũng trình bày khi vợ chồng anh T về ở, chăm sóc cụ B các con cụ B đều nhất trí. Tuy nhiên, bản án sơ thẩm không xem xét đến quyền, lợi ích hợp pháp của anh T, chị H1 đối với thửa đất cũng công sức của anh T, chị H1.

(iii) Đối với phần diện tích 320,7m2 tăng thêm so với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: Tòa án cấp sơ thẩm xác minh tại UBND xã Trung G, huyện Phù N thể hiện: Diện tích tăng thêm này do sai số trong quá trình đo đạc… phần diện tích đất tăng thêm sau này người sử dụng đất làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì không phải nộp tiền sử dụng đất. Phần diện tích đất tăng thêm không xác định nằm tại vị trí cụ thể nào. Bản án sơ thẩm quyết định tạm giao phần diện tích đất tăng thêm là 320,7m2 so với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông D, bà T nhưng chỉ căn cứ vào biên bản xác minh tại UBND xã Trung G để xác định người sử dụng đất không phải nộp tiền sử dụng đất là chưa đảm bảo.

(iv) Bản án sơ thẩm còn có những vi phạm, cụ thể là:

- Trong đơn khởi kiện và đơn khởi kiện bổ sung ông L đề nghị Tòa án chia di sản thừa kế của cụ G và cụ B để lại là quyền sử dụng đất thửa đất số 49, tờ bản đồ số 49 diện tích 1675m2 (trong đó có 300m2 đất ở và 1695,7m2 đất vườn) và 320,7m2 đất vườn tăng thêm; 02 thửa đất lúa gồm: Thửa 90-1 tờ bản đồ số 24, diện tích 144m2 và thửa số 90-2 tờ bản đồ số 24 diện tích 720m2, các thửa đất này đều tại khu 4, xã Trung G, huyện Phù N, tỉnh Phú Thọ. Tòa án đã thụ lý theo yêu cầu và đã thẩm định giá đối với các diện tích đất trên. Ngày 29/10/2022 ông L có đơn xin rút ỵêu cầu chia thừa kế đối với hai thửa đất lúa. Nhưng bản án sơ thẩm không quyết định đình chỉ nội dung này là chưa quyết định đầy đủ các nội dung liên quan đến yêu cầu của đương sự.

- Về chi phí tố tụng ông L đã nộp để xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá đối với thửa đất số 49, tờ bản đồ 49: Ông L đề nghị ai được hưởng di sản thì phải chịu chi phí tố tụng tuy nhiên bà T cũng được thanh toán công sức trông nom, quản lý di sản nhưng bản án sơ thẩm không xem xét nghĩa vụ thanh toán chi phí tố tụng của bà T cho ông L là chưa đầy đủ.

- Về án phí: Ngày 25/7/2019 ông L nộp tạm ứng 300.000đ án phí. Ông L là người cao tuổi đã có đơn xin miễn án phí nhưng bản án sơ thẩm không quyết định ông L được miễn tiền án phí dân sự sơ thẩm và không quyết định về số tiền ông L đã nộp tạm ứng án phí ngày 25/7/2019.

3. Bản án dân sự phúc thẩm số 532/2023/DS-PT ngày 27/10/2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội về việc tranh chấp quyền sử dụng đất

Nội dung hủy án 

(i) Xét thấy, cụ Phạm Văn N và cụ Vương Thị N được HTX Nguyễn Đức Mậu cấp đất ở năm 1970 và làm nhà ở cho đến năm 1986 sức khỏe yếu nên vào thành phố Vinh ở với con trai là Phạm Văn Ng. Các đương sự thống nhất về quan hệ huyết thống và nguồn gốc thửa đất tranh chấp nêu trên. Nguyên đơn trình bày năm 1986 (khi chuyển vào thành phố Vinh sống) hai cụ Phạm Văn N và Vương Thị N để lại thửa đất cho anh V và anh D trông coi nhưng không có chứng cứ chứng minh; Phía bị đơn anh Nguyễn Văn V cho rằng, sau khi đón hai cụ vào thành phố Vinh, ông Ng trở lại và bán nhà đất cho vợ chồng ông B (sau đó ông B để cho vợ chồng anh V ra ở riêng trên diện tích này). Bị đơn anh D trình bày được HTX Nguyễn Đức Mậu cấp năm 1990 (cắt một phần đất thừa của hộ anh V, việc cấp đất của hộ anh D do ông Hồ Minh T và ông Nguyễn Văn Ng - nguyên phó chủ nhiệm HTX thực hiện). Tuy nhiên cả anh V và anh D cũng đều không cung cấp được tài liệu chứng minh. Tòa án sơ thẩm không làm rõ các nội dung còn mâu thuẫn trên để làm căn cứ xem xét nguồn gốc đất cấp cho bị đơn cũng như xác định chính xác di sản thừa kế của cụ N, cụ N là thiếu sót.

(ii) Cấp sơ thẩm xác định di sản là quyền sử dụng đất của cụ Phạm Văn N và cụ Vương Thị N (hai cụ được nhà nước cấp từ năm 1970 và sử dụng đến năm 1997) do bị đơn quản lý theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số K 700483 cho anh Nguyễn Văn V đối với thửa đất số 729 là 430 m2 (đã bị Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An hủy theo bản án số 02/2018/HC-PT ngày 25/5/2018). Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho anh Hồ Văn D thửa đất số 730 diện tích 267 m2. Tuy nhiên, diện tích có sự thay đổi, theo kết quả thẩm định thì hiện trạng thửa 730 là 307,9 m2 , thửa 729 là 754 m2. Anh V và anh D trình bày diện tích tăng thêm là do khai phá, còn UBND xã thì cho rằng ranh giới thửa đất ổn định, sai số do đo đạc qua các thời kỳ, tại phiên tòa ông Ng cho rằng không có việc khai phá. Hồ sơ vụ án thể hiện trên thửa đất số 729, tờ bản đồ số 114 -70 tại thôn 13, xã S, huyện Quỳnh Lưu còn có nhà của chị Nguyễn Thị L. Tòa án sơ thẩm chưa làm rõ các nội dung còn mâu thuẫn chưa xác minh hiện trạng cụ thể của thửa đất 729 như thế nào? có liên quan đến quyền lợi của chị L không?, trên đất gồm có tài sản gì? thuộc quyền sở hữu của ai, là chưa xem xét vụ án một cách triệt để.

(iii) Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện, hủy một phần Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số I 782840 do UBND huyện Quỳnh Lưu cấp năm 1997 đối với thửa 730 diện tích 267m² và một phần quyết định số 07/QDUB, tuy nhiên tại phiên tòa phúc thẩm, anh D cho rằng Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của thửa 730 trên đã được thay thế và xuất trình bản sao Giấy Chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên Hồ Quang D được cấp ngày 06/9/2019. Như vậy, tài liệu trên là tình tiết mới cần được xem xét, làm rõ.

(iv) Cấp sơ thẩm xác định chia thừa kế của cụ Vương Thị N chết năm 1990 và cụ Phạm Văn N chết năm 1993 nhưng không chia di sản của hai cụ theo từng thời điểm mở thừa kế; không tuyên cụ thể các kỷ phần thừa kế được hưởng mà buộc các bên giao nhận tài sản cho nhau là không phù hợp. Tài liệu chứng cứ tại hồ sơ vụ án thể hiện anh Nguyễn Văn V, chị Nguyễn Thị H sử dụng đất từ năm 1988; anh Hồ Văn D và chị Pham Thị H sử dụng đất từ năm 1990, cấp sơ thẩm chỉ xem xét công sức tôn tạo, làm tăng giá trị đất cho anh D và anh V (không xem xét công sức của chị Nguyễn Thị H, chị Phạm Thị H) là chưa đầy đủ. Ngoài ra, phần diện tích được giao cho các bên không có sơ đồ kèm theo dẫn đến khó khăn cho công tác thi hành án.

(v) Tổng hợp các phân tích trên cho thấy kháng nghị phúc thẩm số 33/QÐKNPT VC1-DS ngày 26/10/2022 của VKSND cấp cao tại Hà Nội và kháng cáo của anh Hồ Văn D là có căn cứ. Do có tình tiết mới và một số nội dung chưa được làm rõ, cấp phúc thẩm không thể khắc phục được nên cần hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại theo quy định như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội.

4. Bản án dân sự phúc thẩm số 512/2023/DS-PT ngày 23/10/2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội về việc tranh chấp quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

Nội dung hủy án:

(i) Yêu cầu ông T1 trả lại diện tích đất lấn chiếm sang Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của nhà bà khoảng 44m2 (chiều rộng 2,2m mặt đường bê tông, chiều sâu khoảng 20m), vị trí đất giáp ranh đất nhà ông T1 đang sử dụng.

Ngày 07/01/2022, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn là ông Vũ Đức N có đơn xin rút một phần yêu cầu khởi kiện, cụ thể là yêu cầu khởi kiện thứ (2), thứ (3).

Ngày 02/12/2021, Tòa án nhân dân huyện Văn Chấn tiến hành xem xét, thẩm định tại chỗ.

Ngày 24/01/2022, Tòa án nhân dân huyện Văn Chấn tổ chức mở phiên họp về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ. Tại phiên họp, nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện: “Yêu cầu hoặc cưỡng chế ông T1 tháo dỡ hàng rào trái phép trên diện tích khoảng 100m2 đất hợp pháp của bà T, hoàn trả lại quyền sử dụng đất của bà”.

Nhưng đến ngày 24/3/2022, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn mới có quan điểm thể hiện: “Theo kết quả đo đạc thẩm định tại thực địa, hôm đó, ông T1 đã cố tình chỉ rộng thêm phần diện tích tranh chấp lấn chiếm ra đến giữa thửa đất, diện tích tăng lên thành 734,2m2 đất”. Bởi vậy, nguyên đơn mới đề nghị Tòa án buộc ông T1 hoàn trả lại quyền sử dụng đất cho bà T diện tích 734,2m2 đất căn cứ vào kết quả đo đạc khi Tòa án cấp sơ thẩm xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 02/12/2021.

Tại Biên bản lấy lời khai của bị đơn là ông Nguyễn Viết T1 cùng ngày 24/3/2022, bị đơn có quan điểm không đồng ý trả lại diện tích 734,2m2 đất nêu trên đồng thời có yêu cầu phản tố đề nghị hủy GCNQSD đất do UBND huyện V cấp cho bà Cao Thị H đối với diện tích 969m2 đất (hiện đã chuyển nhượng cho bà Nguyễn Thị T).

Như vậy, việc thay đổi yêu cầu khởi kiện của người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn được đưa ra sau thời điểm Tòa án mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ mà việc thay đổi yêu cầu khởi kiện này lại vượt quá phạm vi khởi kiện ban đầu, do đó, việc Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu này của nguyên đơn là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.

(ii) Mặc dù vậy, tại biên bản xác định ranh giới, mốc giới, diện tích thửa đất đối với chủ sử dụng đất là Cao Thị H lập ngày 13/7/2002 của UBND xã S thì diện tích đất nhà bà Cao Thị H chỉ là 969m2 đất; tại đơn xin đăng ký quyền sử dụng đất của bà Cao Thị H lập cùng ngày cũng chỉ kê khai đăng ký quyền sử dụng diện tích 969m2 đất; GCNQSD đất số 00178 do UBND huyện V cấp ngày 05/9/2002 cho bà Cao Thị H cũng chỉ có diện tích 969m2 đất; tại đơn xin đăng ký biến động đất đai, tài sản gắn liền với đất, bà Nguyễn Thị T đề ngày 22/6/2021, bà T nhận chuyển nhượng đất của bà Cao Thị H diện tích 969m2 đất (Theo hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 22/6/2021) cũng chỉ kê khai, đăng ký biến động đối với diện tích 969m2 đất; trên cơ sở này, Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện V xét nhu cầu, nguyện vọng không có nhu cầu đo đạc, cấp mới GCNQSD đất sau khi nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất của bà Nguyễn Thị T, đã thực hiện thủ tục chỉnh lý, xác nhận việc chuyển nhượng diện tích 969m2 đất trên trang số 04 của GCNQSD đất.

Tuy nhiên, theo kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ và sơ đồ khu đất được đính kèm theo bản án sơ thẩm, diện tích thực tế bà Nguyễn Thị T đang sử dụng là 816,1m2 + 734,2m2 = 1.550,3m2, lớn hơn nhiều so với GCNQSD đất đã cấp cho bà Cao Thị H và được chỉnh lý sang tên bà Nguyễn Thị T. Việc Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị T vô hình chung lại hợp pháp hóa quyền sử dụng toàn bộ 1.550,3m2 đất cho bà Nguyễn Thị T trong khi cấp sơ thẩm chưa tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ chứng minh về lý do diện tích tăng thêm nhiều như vậy, trong khi trình bày của đương sự còn có mâu thuẫn là chưa đảm bảo khách quan, toàn diện. UBND xã S và UBND huyện V cũng không lý giải được lý do diện tích tăng thêm; Khi chưa có cơ sở vững chắc chứng minh, việc công nhận toàn bộ diện tích 1.550,3m2 đất thuộc quyền sử dụng của bà Nguyễn Thị T có thể xâm phạm nghiêm trọng tới quyền lợi của các đương sự khác trong vụ án hoặc người thứ ba hoặc ảnh hưởng tới hoạt động quản lý đất đai của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Cũng tại Biên bản xác định ranh giới, mốc giới thửa đất ngày 30/4/2004, diện tích đất của bà Cao Thị H giáp Công ty cổ phần C1, nhưng tại sơ đồ khu đất đính kèm theo bản án sơ thẩm lại giáp đường lô chè; ngoài ra, kích thước, hình thể thửa đất của bà Cao Thị H tại sơ đồ này về cơ bản cũng không phù hợp với kích thước, hình thể thửa đất thể hiện tại Biên bản xác định ranh giới, mốc giới, diện tích thửa đất được lập ngày 13/7/2002.

5. Bản án dân sự phúc thẩm số 524/2023/DS-PT ngày 01/8/2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh về việc tranh chấp quyền sử dụng đất

Nội dung hủy án:

(i) Ngoài ra, theo lời khai của phía người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phù hợp với các biên bản thẩm định tại chỗ của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương và Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh thể hiện phía bị đơn đã có quá trình dử dụng đất lâu dài, trên đất có nhà ở, công trình xây dựng khác và cây lâu năm nhưng bản án sơ thẩm đã không cho thẩm định, định giá các tài sản, cây trồng trên đất để xem xét giải quyết công sức, tài sản trên đất cho phía bị đơn trong trường hợp chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là chưa phù hợp quy định của pháp luật, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.

(ii) Xét thấy, sai sót này là vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng và về nội dung ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự mà cấp phúc thẩm không thể khắc phục được. Để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự và đảm bảo hai cấp xét xử, cần chấp nhận một phần kháng cáo của người kế thừa quyền nghĩa vụ tố tụng của bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - ông Nguyễn Hữu C và chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tại phiên tòa phúc thẩm: Hủy bản án dân sự sơ thẩm số 02/2014/DS-PT ngày 26 tháng 3 năm 2014 của Toà án nhân dân tỉnh Bình Dương, giao hồ sơ về cấp sơ thẩm xác minh, làm làm rõ những vấn đề đã phân tích trên.

6. Bản án dân sự phúc thẩm số 82/2024/DS-PT ngày 30/9/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ về việc tranh chấp quyền sử dụng đất

Nội dung sửa án:

Về ranh giới thực tế và diện tích đất của hai thửa đất: Theo quy định tại điểm 1.2 khoản 1 Điều 11 Thông tư số 25/2014/TT- BTNMT ngày 19/5/2014 của Bộ Tài nguyên và Môi trường thì: “Ranh, giới thửa đất được xác định theo hiện trạng đang sử dụng, quản lý và chỉnh lý theo kết quả cấp Giấy chứng nhận, bản án của tòa án có hiệu lực thi hành, kết quả giải quyết tranh chấp của cấp có thẩm quyền, các quyết định hành chính của cấp có thẩm quyền có liên quan đến ranh giới thửa đất”. Do hiện nay ranh giới theo hiện trạng sử dụng đất đang có sự không khớp nhau giữa hai chủ sử dụng đất và thửa đất số 39 đã được cấp GCNQSD đất nhưng việc đo đạc để cấp GCNQSD đất đối với thửa đất số 39 của hộ ông Nguyễn Bá C, bà Trần Thị N không đảm bảo quy định của pháp luật nên cũng không thể căn cứ vào ranh giới của Bản đồ địa chính và hồ sơ cấp đất để xác định chính xác giữa hai hộ. Vì vậy, cần căn cứ biên bản hoà giải xác định ranh giới từ chủ sở hữu giai đoạn trước, những người làm chứng cũng như thực trạng sử dụng đất để xác định ranh giới thực tế giữa hai hộ. Ngày 19/9/2024, Toà án nhân dân tỉnh Phú Thọ đã tổ chức thẩm định lại, nguyên đơn xác định ranh giới theo ranh giới của tờ trích đo Bản đồ địa chính, bị đơn xác định ranh giới theo đường rãnh nước (chỗ có rãnh nước chỗ không) và vị trí 1 cây cọ còn xót lại chạy từ chân đồi lên đỉnh đồi. Căn cứ vào ranh giới các bên chỉ, căn cứ vào biên bản hoà giải lần 1 ngày 19/01/2021, căn cứ lời khai của những người làm chứng có cơ sở để xác định ranh giới thực tế giữa hai hộ trùng với vị trí mà bị đơn xác định, và thực tế phần diện tích đất đang tranh chấp do bị đơn sử dụng đã trồng và khai khác nhiều lần.

Đồng thời, năm 1999 ông Dương Huỳnh Đ được UBND xã P N giao khoán đất trồng cây lâm nghiệp với diện tích 13.337m2 đất rừng sản xuất thuộc thửa số 129A, lô 129 (nay là thửa số 77) đến năm 2003 vợ chồng ông Đ đã chuyển nhượng diện tích đất trên cho vợ chồng nguyên đơn. Năm 2010 UBND xã P N đã giao cho vợ chồng nguyên đơn thêm diện tích của trường bắn. Thời điểm UBND xã P N giao thêm đất trường bắn cho ông C bà L không có bản đồ thể hiện diện tích đất giao là bao nhiêu, hồ sơ vụ án không có tài liệu nào chứng minh việc giao đất ở trường bắn cho ông C bà L là bao nhiêu diện tích đất. Còn về diện tích đất của bị đơn, thì ông T là chủ sở hữu ban đầu của thửa đất số 39 cũng xác nhận khi ông nhận khoán thửa đất này thì UBND xã P N chỉ giao khoán để canh tác sử dụng 17.086m2 đất lâm nghiệp thuộc lô 129 thửa số 129B tại Khu X, xã P N, huyện P N, tỉnh Phú Thọ còn thực tế không đo đạc nên diện tích 17.086m2 cũng chưa phải là diện tích chính xác của thửa đất mà cần phải đo đạc cụ thể dựa trên ranh giới giữa hai hộ. Tuy nhiên, quá trình đo đạc cấp GCNQSD đất đã không thực hiện việc đo đạc mốc giới giữa hai hộ theo quy định của pháp luật. Vì vậy, TAND cấp sơ thẩm căn cứ vào Bản đồ địa chính để xác định tổng diện tích đất của thửa đất số 77 bao gồm diện tích đất gộp thêm là 27.077,1m2; xác định diện tích của thửa 39 là 17.086m2 và xác định ranh giới đất giữa các bên theo ranh giới của bản đồ địa chính để xác định 2535m² đang tranh chấp thuộc thửa đất số 77 là không chính xác và không có căn cứ.

Từ những phân tích nêu trên có đủ cơ sở xác định: Toà án cấp sơ thẩm chưa đánh giá đầy đủ quá trình đo đạc để vẽ Bản đồ cấp GCNQSD đất; chưa xem xét về ranh giới thực tế được chính các chủ sở hữu trước xác nhận và ý kiến của những người làm chứng, thực trạng sử dụng dụng đất của bị đơn mà chỉ căn cứ vào ranh giới Bản đồ cấp GCNQSD để giải quyết vụ án. Tại giai đoạn phúc thẩm, đương sự có đề nghị trưng cầu giám định tờ trích đo Bản đồ cấp GCNQSD đất; kết quả giám định là tình tiết mới khẳng định thêm việc đo đạc Bản đồ cấp GCNQSD đất chưa đảm bảo quy định của pháp luật. Vì vậỵ, việc Toà án cấp sơ thẩm căn cứ Bản đồ cấp GCNQSD đất để xác định 2535m² diện tích đang tranh chấp thuộc thửa đất số 77 của hộ ông C và chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông C là không đúng, chưa đánh giá khách quan, toàn diện chứng cứ trong hồ sơ vụ án.

7. Bản án dân sự phúc thẩm số 91/2024/DS-PT ngày 05/3/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh về việc tranh chấp quyền sử dụng đất

Nội dung sửa án 

Qua xác minh những người sống gần đất tranh chấp và những người thuê đất xác định đất tranh chấp là của ông bà của ông N để lại cho ông N (bút lục 97, 98, 107, 189, 190, 191, 192, 193, 194). Con mương bên đất ông N là người mướn đất ông N trồng mì móc để thoát nước (Bút lục 188). Giữa đất ông T với ông N là ông T tự móc mương để xác định ranh đất giữa ông T với ông N (bút lục 99,100). Hơn nữa bà Nguyễn Thị L2 là người bán đất cho ông T xác định diện tích đất ông T tranh chấp với ông N bà L2 không chuyển nhượng cho ông T phần đất này là của ông bà ông N để lại cho ông N (bút lục 95, 96). Nên ông N là người trực tiếp khai phá, quản lý, sử dụng, công khai, liên tục, ổn định, lâu dài, không ai tranh chấp từ năm 1974 cho đến nay là 50 năm. Còn ông T chỉ đứng tên trong sổ địa chính, sổ mục kê năm 2010 thể hiện diện tích 4. 964,4 m2 loại đất lúa là không đúng loại đất mà ông T kê khai đăng ký được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích 4.000m2, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: 00946QSDĐ/450507 ngày 30-12-1997. Trong 4.000 m2 ông T được cấp có 400m2 là đất (T) thổ và 3.600m2 đất ĐRM ( bút lục 94). Nhưng cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Văn T. Buộc ông Lưu Quang N giao cho ông T diện tích 964,4m2 là không có cơ sở. Do đó, có căn cứ chấp nhận đơn kháng cáo của ông Lưu Quang N.

8. Bản án dân sự phúc thẩm số 206/2023/DS-PT ngày 06/10/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước về việc tranh chấp quyền sử dụng đất

Nội dung sửa án 

(i) Về xác định tư cách tham gia tố tụng:

Ông Hoàng Phước H là nguyên đơn bị bệnh chết ngày 10/12/2022 và có cha là ông Hoàng Đ, mẹ là bà Nguyễn Thị T cùng 01 con trai tên Hoàng Phước Bình, sinh ngày 03/6/2006. Ông H đã ly hôn vợ, Tòa án cấp sơ thẩm đã đưa ông Đ, bà T tham gia tố tụng với tư cách người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn là đúng quy định tại Điều 74 Bộ luật Tố tụng dân sự, Điều 651 Bộ luật Dân sự, tuy Tòa án cấp sơ thẩm chỉ có ghi lời khai của cháu B1 nhưng việc ghi lời khai không có người đại diện theo pháp luật tham gia là thiếu sót, Tòa án cấp phúc thẩm đã khắc phục bằng việc đưa cháu B1 tham gia tố tụng với tư cách người kế thừa quyền và nghĩa vụ của nguyên đơn và xác định bà Nguyễn Thị T và ông Hoàng Đ làm người giám hộ cho cháu B1 vì từ khi ly hôn, mẹ cháu B1 là bà Nguyễn Thị Quỳnh Nh không thăm nom, chăm sóc cháu B1 mà cháu B1 ở với ông Đ, bà T, hiện cháu B1 và ông Đ, bà T cũng không biết chị Nh đang ở đâu nên Tòa án nhân dân huyện ĐP xác định ông Đ, bà T làm người giám hộ cho cháu B1 là phù hợp.

Cấp sơ thẩm không đưa Cơ quan quản lý nhà nước về đất đai tham gia tố tụng là thiếu sót nhưng đã được cấp phúc thẩm khắc phục bằng việc đưa họ tham gia tố tụng và ghi ý kiến. Ngoài ra, việc giải quyết vụ án cũng không ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của các cơ quan này nên Hội đồng xét xử tiếp tục xem xét, giải quyết vụ án.

(ii) Sơ đồ đo đạc (đã được bổ sung ngày 14/9/2023) của Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai huyện ĐP xác định theo ranh đất do ông D chỉ thì gia đình ông D không lấn đất của gia đình ông H nên yêu cầu trả lại đất của ông H đối với gia đình ông D là không có căn cứ chấp nhận, cần sửa Bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện ĐP.

9. Bản án dân sự phúc thẩm số 253/2023/DS-PT ngày 11/9/2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng về việc tranh chấp chia di sản thừa kế, tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu và hủy quyết định cá biệt

Nội dung sửa án 

Cụ Lê Đức T chết năm 1947, nhưng đến năm 1975, gia đình ông Lê T (bị đơn) mới chuyển đến sinh sống tại thôn T, xã H L, huyện H rồi thực hiện việc khai hoang đất, sau đó hình thành lên thửa đất 48, tờ bản đồ số 6 cho đến nay. Theo kết quả xác minh tại Công an huyện H, trong hồ sơ khai nhân khẩu hoàn toàn không có thông tin của cụ Nguyễn Thị T. Ngoài ra, thời điểm gia đình bị đơn chuyển đến sinh sống, thì được Hợp tác xã Hoà L phân chia đất tại Đội 15 thôn T, xã H L, huyện H. Lúc này, cụ Nguyễn Thị T đã 75 tuổi và vẫn còn ở thôn A 1, xã Hoà S, huyện H, thành phố Đà Nẵng. N 1989, cụ T mới bán nhà về ở nhà con cháu, anh chị em; năm 1994, cụ T mới về sống chung với gia đình bị đơn và đến năm 1998, cụ T chết. Nội dung nêu trên được Trưởng tộc họ Lê Đức (thôn T S) là ông Lê Đức Nam xác nhận tại Đơn xác nhận ngày 21-12-2020 và được ông Dương Xí (Trưởng thôn) ký xác nhận tại Giấy xin xác nhận ngày 25-02-2021 của ông Lê Đức O. Ngoài ra, tại Biên bản họp tộc ngày 21-12-2020, tộc Lê Đức thôn T S xác nhận “Nguồn gốc đất của ông Lê T là do gia đình ông T khai hoang vỡ hoá và nhận đất thối công khai phá của một số người khác”.

Ông Lê Đức C (ký trong Giấy họp dòng họ ngày 05-12-2019), do nguyên đơn cung cấp đã có Đơn xác nhận ngày 23-02-2021, xác nhận lại có nội dung “Đất đang tranh chấp là đất của gia đình ông Lê T tự khai hoang vỡ hóa và nhận đất thối từ công khai phá”; đồng thời, ông C còn khẳng định nội dung xác nhận của ông tại Giấy xác nhận ngày 01-3-2019 và Biên bản họp dòng họ ngày 05-12-2019 là do ông Lê N và anh Lê Quang H (con ông N) nhờ ông ký xác nhận tại thời điểm ông có men bia trong người, tinh thần không tỉnh táo và ông cũng không để ý đến nội dung trong biên bản viết gì khi ký xác nhận.

Đối với các giấy xác nhận khác của một số người làm chứng do nguyên đơn cung cấp, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng: (1) Giấy xác nhận của ông Nguyễn H, ông Nguyễn Văn S ký ngày 10-9-2019, nhưng lại có chứng thực của UBND xã Hoà L vào ngày 09-9-2019 - Chứng thực trước 01 ngày, (2) Giấy xác nhận của ông Trần N:

Ông N sinh năm 1926, thời điểm năm 2019, ông N đã 92 tuổi, bà Diệu (con dâu của ông N ghi Giấy xác nhận) đã thừa nhận bà viết lại giấy theo ý của ông Lê N, chứ không phải ông N nói để bà viết. Ngoài ra, những người con ruột của ông Trần N xác nhận ông N bị lãng, mất năng lực hành vi từ hơn 10 năm nay, ông Trần N chưa bao giờ tham gia cách mạng như trong giấy đã ghi. Như vậy, Giấy xác nhận của ông Nguyễn H, ông Nguyễn Văn S và ông Trần N không đủ tính xác thực, nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không sử dụng các tài liệu này làm chứng cứ khi giải quyết vụ án.

Quá trình giải quyết vụ án, các đương sự đều thừa nhận cụ Lê Đức T chết năm 1947. Sau khi cụ T chết, cụ Nguyễn Thị T cùng các con ở tại thôn H, xã H Thái, huyện H (nay là xã H L, huyện H). N 1952, cụ Nguyễn Thị T cùng các con về sống tại D, thôn A, xã H T (nay là xã H), huyện H, thành phố Đà Nẵng. N 1975, gia đình ông Lê T về ở tại diện tích đất tranh chấp nêu trên. Ông Lê N và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phía ông Lê N cho rằng diện tích đất nêu trên là của cụ Lê Đức T và cụ Nguyễn Thị T để lại, nhưng các đương sự không cung cấp được tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho trình bày của mình và nội dung này không được bị đơn (ông Lê T) thừa nhận; đồng thời, cụ Lê Đức T và cụ Nguyễn Thị T cũng không có bất kỳ giấy tờ nào theo quy định tại khoản 1, 2 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003 hoặc khoản 1, khoản 2 Điều 100 của Luật Đất đai năm 2013; trên đất tranh chấp không tồn tại bất kỳ tài sản nào của cụ T và cụ T. Ngoài ra, tại khoản 2, khoản 5 Điều 14 của Luật Đất đai năm 1987 quy định: “Nhà nước thu hồi toàn bộ hoặc một phần đất đã giao sử dụng trong những trường hợp sau đây: … 2) Tất cả số người trong hộ sử dụng đất đã chuyển đi nơi khác hoặc đã chết… 5) Người sử dụng đất không sử dụng đất được giao trong 06 tháng liền mà không được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định giao đất đó cho phép”. Do đó, trường hợp nếu diện tích đất tranh chấp là của cụ Lê Đức T, cụ Nguyễn Thị T, nhưng thời điểm từ năm 1947 đến trước năm 1975, hộ cụ T, cụ T không ai quản lý, sử dụng diện tích đất này, nên cũng không còn là tài sản của hai cụ.

T nhiên, trong trường hợp chưa xác minh làm rõ được nguồn gốc thửa đất là của cụ Lê Đức T, cụ Nguyễn Thị T để lại hay do ông Lê T khai hoang và nhận thêm đất do thối công, thì thực tế thửa đất số 48, tờ bản đồ số 6 đã được Hợp tác xã thu và quản lý từ năm 1983, nên thửa đất này không còn được xem là di sản thửa kế của cụ T và cụ T, cụ thể: N 1983, thực hiện chính sách quản lý đất đai của Nhà nước trong toàn quốc, thì trong diện tích 14.650 m2 đất được ông Lê T khai hoang và nhận chuyển nhượng, chính quyền địa phương đã thu hồi diện tích 12.150 m2 đất để đưa vào Hợp tác xã quản lý (ý kiến của Hội đồng đăng ký ruộng đất xã xác nhận tại Đơn xin đăng ký quyền sử dụng đất ngày 17-11-1983). Do đó, tại thời điểm này, diện tích 12.150 m 2 đất đã không còn là đất của cụ T, cụ T hay của ông Lê T mà do Hợp tác xã quản lý.

Sau đó, Hợp tác xã có chính sách cấp lại đất cho các hộ dân (là các xã viên) có nhu cầu trực tiếp sử dụng đất. Lúc này, gia đình ông Lê T có nhu cầu thực tế sử dụng đất, nên đã được Hợp tác xã giao cấp lại đất để sản xuất, trồng trọt. Việc cấp đất này không phụ thuộc vào việc trước đây các xã viên có đất hoặc có bị thu hồi đất hay không, mà đơn thuần chỉ dựa vào nhu cầu thực tế sử dụng đất của xã viên. Như vậy, từ đầu những năm 1980, thửa đất 48, tờ bản đồ số 6 đã được xác lập lại là của ông Lê T mà không còn phụ thuộc vào nguồn gốc trước đó đất này là của ai.

Tại khoản 5 Điều 26 của Luật Đất đai năm 2013 quy định: “Nhà nước không thừa nhận việc đòi lại đất đã được giao theo quy định của Nhà nước cho người khác sử dụng trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” và tại Điều 1 Nghị quyết số 23/2003/QH11 ngày 12-3-2003 của Quốc hội quy định: “Điều 1: Nhà nước không xem xét lại chủ trương, chính sách và việc thực hiện các chính sách về quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa liên quan đến nhà đất đã ban hành trước ngày 01 tháng 7 năm 1991.

Nhà nước không thừa nhận việc đòi lại nhà đất mà Nhà nước đã quản lý, bố trí sử dụng trong quá trình thực hiện các chính sách về quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa liên quan đến nhà đất”.

Như phân tích trên, Nhà nước đã thừa nhận tổng diện tích 14.650 m2 thuộc quyền quản lý, sử dụng của hộ ông Lê T (do Hợp tác xã cấp). Sau này là 15.488 m2 đất, trong đó đất thổ cư là 11.239 m2 thuộc thửa đất số 511, tờ bản đồ 26, theo Giấy CNQSDĐ số I211279 ngày 06-12-1996 thuộc quyền sử dụng của gia đình ông Lê T và 1.506 m2 đất thổ cư thuộc thửa đất 343, tờ bản đồ 26, theo Giấy CNQSDĐ số I 211334 ngày 06-12-1996 thuộc quyền sử dụng của gia đình ông Lê Quang T (con ông Lê T). Toà án cấp sơ thẩm xác định thửa đất đất 48, tờ bản đồ 06 là di sản thừa kế của cụ Lê Đức T và cụ Nguyễn Thị T là không thực hiện đúng quy định tại khoản 2, khoản 5 Điều 14 của Luật Đất đai năm 1987; khoản 5 Điều 26 của Luật Đất đai năm 2013 và Điều 1 Nghị quyết số 23/2003/QH11 ngày 12-3-2003 của Quốc hội khi thừa nhận việc đòi lại nhà đất mà Nhà nước đã quản lý, bố trí sử dụng trong quá trình thực hiện các chính sách về quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa liên quan đến nhà đất, từ đó chia 27 lô đất tái định cư của ông Lê T và Lê Quang T cho nguyên đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn.

Do có cơ sở xác định thửa đất 48, tờ bản đồ 6 (sau này là thửa đất số 511 và thửa đất số 343, cùng tờ bản đồ số 26, thôn T, xã H L, huyện H) không phải là di sản thừa kế của cụ Lê Đức T và cụ Nguyễn Thị T, nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không xác định hàng thừa kế và không chia thừa kế.

Như vậy, kháng cáo của bị đơn và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại phiên tòa là có cơ sở, nên được Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận.

10. Bản án dân sự phúc thẩm số 180/2023/DS-PT ngày 25/7/2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng về việc tranh chấp quyền sử dụng đất

Nội dung sửa án:

Tại phiên tòa hôm nay ông Mai Đức Q và đại diện theo Ủy quyền cho Bà Mai Thị Thanh thống n thỏa thuận như sau: Ông Mai Đức Q trả lại 26,80m2 diện tích tăng thêm cho Mai Thị T và những người thừa kế. Ông Mai Đức Q không phải thối trả cho bà T và những người thừa kế của ông H1, bà B số tiền: 402.000.000 đồng. Như vậy diện tích ông T thực nhận là 338,10m2 (364,90m2- 26,80m2)= 338,10m2. (Có sơ đồ kèm theo bản án phúc thẩm).

Xét thấy: Đây là sự tự nguyện thỏa thuận của các bên đương sự, không trái pháp luật và đạo đức xã hội, không vi phạm điều cấm của pháp luật do vậy cần chấp nhận. Sửa bản án dân sự sơ thẩm, công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.

Hội đồng nhận thấy các bên đương sự đã tự nguyện thỏa thuận, xét thấy việc hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp là không cần thiết. Các đương sự tự liên hệ với Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để điều chỉnh, chỉnh lý cho phù hợp với thỏa thuận, đảm bảo quyền lợi cho các bên.

Góp ý