MỤC LỤC
1. Bản án dân sự phúc thẩm số 34/2024/DS-PT ngày 22/3/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai về việc tranh chấp quyền sử dụng đất.
Nội dung hủy án:
(i) Tòa án cấp sơ thẩm đã đưa đầy đủ người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng là đúng theo quy định tại Điều 68 Bộ luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên, do ông Đặng M2 (chồng bà Đ) chết ngày 09/10/2014, thế nhưng tại phần Quyết định của bản án chỉ buộc bà Hà Thị Đ phải tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo giấy cho đất ngày 20/02/2001 trong khi người thừa kế của ông M2 còn có ông Đặng Thành D, bà Đặng Thị Tuyết S, bà Đặng Thị Tuyết L, bà Đặng Thị Tuyết N, ông Đặng Thành T, bà Đặng Thị Tuyết M, bà Đặng Thành S1, bà Đặng Thị Tuyết H1, bà Đặng Thị Tuyết N1, bà Đặng Thị Tuyết V, ông Đặng Thành T1 và cụ Nguyễn Thị Đ1 (mẹ đẻ ông M2). Trong quá trình tiến hành tố tụng, Tòa án cấp sơ thẩm cần phải tiến hành lấy lời khai của ông H, bà L để xác định yêu cầu phản tố của bị đơn có buộc bà Hà Thị Đ và tất cả những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án phải tiếp tục thực hiện hợp đồng hay không. Thế nhưng, Tòa án cấp sơ thẩm không thực hiện việc lấy lời khai của ông H, bà L về vấn đề này nên không xác định được cụ thể yêu cầu phản tố của bị đơn. Từ đó dẫn đến trong phần quyết định của bản án sơ thẩm chỉ tuyên buộc bà Đ phải tiếp tục thực hiện hợp đồng theo giấy cho đất ngày 20/02/2001 là chưa đúng. Trường hợp này được coi là việc thu thập chứng cứ chưa đầy đủ mà Tòa án cấp phúc thẩm không thể khắc phục được bởi vì gây ảnh hưởng đến quyền lợi của các đương sự, làm cho họ mất quyền kháng cáo, đồng thời vi phạm Điều 17 Bộ luật tố tụng dân sự quy định về bảo đảm chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm. Theo quy định, Tòa án cấp phúc thẩm chỉ xem xét lại vụ án đối với những vấn đề mà Tòa án cấp sơ thẩm đã giải quyết trong khi Tòa án cấp sơ thẩm không xác định rõ yêu cầu phản tố của bị đơn và chỉ tuyên buộc bà Đ phải tiếp tục thực hiện hợp đồng là thiếu sót.
(ii) Về nội dung: Diện tích đất tranh chấp qua đo đạc thực tế 683,6m2 thuộc thửa đất số 189, tờ bản đồ số 11 tại địa chỉ thôn I xã T, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Bà Đ cho rằng diện tích đất tranh chấp này do vợ chồng bà cho ông H, bà L mượn để làm sân phơi cà phê; còn ông H, bà L cho rằng diện tích đất này do vợ chồng ông nhận chuyển nhượng từ ông M2, bà Đ. Khi nhận chuyển nhượng thửa đất chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên vợ chồng ông M2, bà Đ đã ký vào“Giấy cho đất’’đề ngày 20/02/2001, giấy này do ông H là người viết, khi viết đã viết lùi lại thời gian, nội dung cha mẹ cho con gái (bà L) để miễn thuế; thực tế văn bản được viết vào năm 2010 và ông H đã thanh toán đầy đủ tiền chuyển nhượng cho ông M2, bà Đ. Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá chứng cứ, xác định bản chất của Giấy cho đất là hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và từ đó chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông H, bà L. Tuy nhiên, thấy rằng chưa có đầy đủ căn cứ để xác định văn bản này xuất phát từ việc ông H, bà L nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ ông M2, bà Đ bởi lẽ sự việc này không được bà Đ thừa nhận. Mặt khác, văn bản không thể hiện tứ cận thửa đất, không ghi số tờ bản đồ, không ghi giá chuyển nhượng mà chỉ thể hiện việc ông M2, bà Đ cho con gái Đặng Thị Tuyết L thửa đất 700m2 và không có tên ông Lê Bá H. Như vậy, khi giải quyết lại vụ án Tòa án cấp sơ thẩm cần xác định rõ những tình tiết nêu trên để đánh giá chứng cứ cho phù hợp với nội dung tranh chấp vụ án.
Từ những nhận định và phân tích trên, thấy rằng Tòa án cấp sơ thẩm đã vi phạm thủ tục tố tụng, gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Do đó, cần chấp nhận một phần kháng cáo của nguyên đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy toàn bộ bản án sơ thẩm, giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai giải quyết lại vụ án theo quy định tại Điều 310 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
2. Bản án dân sự phúc thẩm số 04/2024/DS-PT ngày 19/01/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Cao Bằng về tranh chấp quyền sử dụng đất.
Nội dung hủy án:
(i) Về tố tụng: Kháng cáo của người đại diện theo uỷ quyền của bị đơn ông Nông Văn S trong thời hạn luật định nên được xem xét giải quyết. Tòa án cấp sơ thẩm đã căn cứ theo quy định tại khoản 9 Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 xác định quan hệ tranh chấp là “Tranh chấp ngôi mộ tổ và tranh chấp ranh giới đất” là không chính xác. Quan hệ tranh chấp trong vụ án này được HĐXX phúc thẩm xác định lại là “Tranh chấp quyền sử dụng đất”.
(ii) Xét kháng cáo và căn cứ kháng cáo của người đại diện theo uỷ quyền của bị đơn Nông Văn S:
Tại đơn kháng cáo đề ngày 16/8/2023 người đại diện theo uỷ quyền của bị đơn ông Nông Văn S kháng cáo toàn bộ bản án số 09/20/23/DS-ST ngày 14/8/2023 của Toà án nhân dân huyện Q, tỉnh Cao Bằng.
Hội đồng xét xử xét thấy:
Về nguồn gốc đất: Nguyên đơn, bị đơn đều cho rằng nguồn gốc đất nghĩa địa Đông S2 là do dòng họ Ma chia cho hai họ L2 – N, tuy nhiên cả hai bên đều không có giấy tờ tài liệu thể hiện về diện tích cũng như ranh giới phân chia giữa hai dòng họ.
Tại công văn số 584/UBND-TNMT ngày 10/5/2023 của Ủy ban nhân dân huyện Q xác định: “ Khu đất nghĩa địa Đ được thể hiện trên bản đồ địa chính, sổ mục kê là thửa đất số 44, tờ bản đồ địa chính số 45, diện tích 20.060m2, mục đích sử dụng NTD (đất nghĩa địa), người quản lý là Uỷ ban nhân dân xã quản lý, loại đối tượng UBQ (Uỷ ban nhân dân quản lý)…”
Như vậy, khu đất nghĩa địa Đ mà hai dòng họ Lê – N10 đang tranh chấp thuộc sự quản lý của Ủy ban nhân dân xã P, huyện Q, tỉnh Cao Bằng. Việc hai dòng họ L2 – Nông chôn cất người chết trên khu đất nghĩa địa thuộc sự quản lý của Uỷ ban nhân dân xã không vi phạm quy định pháp luật. Tuy nhiên, không công nhận quyền sử dụng đất đối với hai dòng họ L2 - Nông do đó tranh chấp giữa hai dòng họ không có căn cứ để Toà án xem xét. Việc Toà án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là không có căn cứ pháp luật. Đối với nội dung kháng cáo của ông Nông Văn S, ngoài lời khai của các nhân chứng không có tài liệu, chứng cứ gì chứng minh, do đó kháng cáo của người đại diện theo uỷ quyền của bị đơn ông Nông Văn S không có căn cứ để xem xét, chấp nhận.
(iii) Xét kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cao Bằng:
HĐXX xét thấy: Trong quá trình giải quyết vụ án, Toà án cấp sơ thẩm có những vi phạm nghiêm trọng sau:
Xác định sai quan hệ tranh chấp, theo quy định tại Điều 105 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định mồ mả trên đất không được coi là tài sản hoặc tài sản gắn liền với đất. Việc các nguyên đơn khởi kiện thực chất là để xác định quyền sử dụng đất từ đó phân chia ranh giới quyền sử dụng đất giữa hai dòng họ. Mặt khác, hiện nay chưa có văn bản pháp luật nào quy định Toà án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp về mồ mả, hài cốt. Do đó, quan hệ tranh chấp trong vụ án này được xác định là “Tranh chấp quyền sử dụng đất”.
Áp dụng sai quy định pháp luật, nhận định giải quyết vụ án không có cơ sở, không khách quan, không đúng theo quy định của pháp luật. Toà án cấp sơ thẩm áp dụng Điều 175 BLDS năm 2015 quy định về Ranh giới giữa các bất động sản là không đúng bởi quy định trên chỉ áp dụng trong trường hợp xác định ranh giới giữa những người có quyền sử dụng đất. Tuy nhiên trong vụ án này, đất tranh chấp là đất nghĩa địa do UBND xã quản lý, chỉ được phép sử dụng chung để chôn cất người chết. Ngoài ra việc lấy lời khai của những người làm chứng để chứng minh nguồn gốc đất là chưa đầy đủ giá trị pháp lý bởi ngoài lời khai không có bất cứ tài liệu chứng cứ nào khác để chứng minh. Toà án cấp sơ thẩm tuyên xử chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, công nhận ranh giới của phần diện tích đất tranh chấp là áp dụng sai Điều 175 BLDS và khoản 2 Điều 132 Luật đất đai năm 2013 về việc xác định chủ thể có quyền sử dụng đất. Đối với vụ án trên cần xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của các đồng nguyên đơn, đối với phần xác định ngôi mộ tổ, do chưa có điều luật áp dụng nên cần áp dụng theo Điều 43 và Điều 45 BLTTDS năm 2015.
Do đó, kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cao Bằng là có căn cứ nên được chấp nhận.
Với những vi phạm nghiêm trọng nêu trên cần thiết phải huỷ Bản án Dân sự số 09/2023/DS-ST ngày 14/8/2023 của Tòa án nhân dân huyện Q, tỉnh Cao Bằng, giao hồ sơ cho Toà án cấp sơ thẩm để giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.
3. Bản án dân sự phúc thẩm số 194/2023/DS-PT ngày 15/9/2023 của Tòa án nhân dân cấp tỉnh Kiên Giang về tranh chấp quyền sử dụng đất.
Nội dung hủy án:
(i) Về nội dung kháng cáo của bản án sơ thẩm: Xét đơn kháng cáo bị đơn bà Trần Thị Cẩm H và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Đỗ Hoàng V yêu cầu không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc hai vợ chồng ông bà trả lại cho bà Nguyễn Thị T diện tích đất 307,5m2 và giải quyết cho vợ chồng ông bà tiếp tục quản lý và sử dụng.Hội đồng xét xử xét thấy bà Nguyễn Thị S sinh năm 1945, chết ngày 28/8/2005 (Bút lục 34) không để lại di chúc. Phía nguyên đơn cho rằng mua đất của bà S ngang 50m, dài 30m bằng 1.500m2 khi bán chưa có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Cùng với đó thì (tại bút lục số 33) cho thấy bà S còn 03 người con ruột là Đỗ Hoàng V1, Đỗ Hoàng T6 và bà Nguyễn Ngọc T1 nhưng cấp sơ thẩm không đưa ông Đỗ Hoàng T6 vào tham gia tố tụng, ông Đỗ Hoàng T6 không rõ năm sinh, hiện đang sống ở thị trấn R, huyện N, tỉnh Cà Mau. Trong vụ án cùng với những người con khác nếu có của bà S là thiếu người có quyền lợi, người có nghĩa vụ liên quan. Để làm rõ việc mua bán của bà S và bà Nguyễn Thị T theo hồ sơ chuyển nhượng đến ngày 03/9/2003 (Tại bút lục số 239) Hội đồng xét xử xét thấy theo biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 24/5/2022 của Tòa án nhân dân huyện Kiên Hải thể hiện không đo hết phần đất theo giấy mua bán trên là chưa phù hợp. Mặt khác, các bên xác định về vị trí đất khi mua bán khác nhau. Trên núi (dưới núi) thì chưa được làm rõ việc khi mua bán đất bằng giấy như trên thì vị trí cụ thể ra sao? Mặt khác, theo tờ trích đo địa chính (Tại bút lục số 226) ngày 13/9/2012 biên bản kiểm kê diện tích đất đai, cây trồng và vật kiến trúc (Tại bút lục số 228) cho thấy diện tích đất là khác so với biên bản xem xét thẩm định tại chỗ của Tòa án ngày 24/5/2022 (Tại bút lục số 182). Diện tích theo xem xét thẩm định tại chỗ tại tờ trích đo địa chính số 73 – 2022 (33 -21) ngày 14/9/2022 của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện K, tỉnh Kiên Giang (Tại bút lục số 184) có diện tích tranh chấp là 375,5m2. Như vậy sau khi thu hồi đất để làm đường quanh đảo L thì diện tích đất còn lại của bà Nguyễn Thị T còn lại bao nhiêu m2 chưa được làm rõ. Sau khi thu hồi diện tích 381,1m2 (Tại bút lục số 288 và 226). Các ông bà theo lời khai của những người làm chứng như các ông bà Lữ Thị S2 (Tại bút lục số 75) thì phần đất của bà S2, ông Văn Hữu N3 (Bút lục số 76) bán cho bà T là từ cây cầy trở lên núi thì hiện nay đã làm đường quanh đảo. Cấp sơ thẩm cần làm rõ phần diện tích đất bà sáu bán cho Nguyễn Thị T vào thời điểm đó phần đất dưới nùi có căn nhà bà S2 đang ở hay không để làm căn cứ xem xét phần đất dưới núi bà S2 có bán cho bà T hay không. Đồng thời phải làm rõ vào thời điểm sau khi bán đất cho cho bà T thì bà S2 có còn ở căn nhà trên phần đất dưới núi hay không. Theo hồ sơ vụ án thì các chứng cứ có trong hồ sơ thể hiện Tòa án có đưa ra những người làm chứng vào tham gia tố tụng nhưng bản án không ghi lời trình bày của những người làm chứng và không đánh giá chứng cứ thông qua những người làm chứng là chưa xem xét một cách toàn diện vụ án. Mặt khác, theo yêu cầu xác minh thu thập chứng cứ của bà H (Bút lục số 127) yêu cầu Tòa án thu thập xác minh của những người làm chứng mà bà H cho rằng biết sự việc mua bán giữa bà S2 và bà T như bà: Nguyễn Thị T7, Nguyễn Thị M2, Nguyễn Thị N, Tạ Văn S1 và một số người khác nhưng tòa án cấp sơ thẩm không triệu tập để xác minh làm rõ.
(ii) Cũng theo chứng cứ có trong hồ sơ lời khai của bà Nguyễn Ngọc H1 (Tại Bút lục số 168) thì bà H1 cùng chồng là ông H và 04 người con của bà là Nguyễn Thị Huyền T8 sinh năm 2011, Nguyễn Ngọc H2 sinh năm 2015, Nguyễn Tuấn K sinh năm 2017, Nguyễn Hoài A sinh năm 2021 đang ở trên căn nhà và đất của vợ chồng ông V – bà H nhưng tòa cấp sơ thẩm không xem xét đánh giá vấn đề này là có thiếu sót mà tuyên buộc bà H trả lại đất. Tuy nhiên căn nhà của bà H1 và ông H nằm tại vị trí nào trên đất chưa được cấp sơ thẩm xác định xem vị trí cụ thể ở đâu? Thông qua sơ đồ vị trí đất tại biên bản thẩm định tại chỗ ngày 24/5/2022 (Tại bút lục số 181 và 182) thì có thể hiện diện tích đất 68,2m2 mà cấp sơ thẩm đã đình chỉ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Nhưng theo tờ trích đo địa chính số 73 – 2022 (33 – 21) ngày 14/9/2022 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện K thì không thể hiện phần đất này nằm ở đâu tuy tổng đúng diện tích đất tranh chấp. Do đó 02 chứng cứ mà Tòa án thu thập được là không phù hợp với nhau.
(iii) Bà T có đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời (tại bút lục 130) nhưng cấp sơ thẩm không giải quyết đơn này là có thiếu sót. Tuy nhiên tại cấp phúc thẩm, bà T cho rằng do bản án sơ thẩm đã tuyên trả lại đất cho bà nên bà không yêu cầu giải quyết đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nữa. Hồ sơ cấp sơ thẩm đánh bút lục không đúng quy định, trong hồ sơ có nhiều bút lục đánh chồng chéo, một trang có 02 bút lục tồn tại song song. Các sai sót như trên cấp sơ thẩm cần rút kinh nghiệm.
(iv) Bản án dân sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang có thiếu sót trong việc đưa người tham gia tố tụng, trong việc thu thập chứng cứ quan trọng, là căn cứ để giải quyết vụ án một cách chính xác, đúng pháp luật, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho các bên đương sự, mà cấp phúc thẩm không thể khắc phục được. Do đó về nội dung xét yêu cầu của nguyên đơn Nguyễn Thị T thì với chứng cứ chứng minh hiện tại có trong hồ sơ là không có đủ cơ sở để chấp nhận; nếu có chứng cứ chứng minh khác thì cấp sơ thẩm xem xét giải quyết và quyết định trong quá trình giải quyết lại vụ án.
4. Bản án dân sự phúc thẩm số 308/2023/DS-PT ngày 14/9/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp quyền sử dụng đất.
Nội dung hủy án:
(i) Về vị trí sử dụng đất trên thực tế và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho đương sự:
Theo lời trình bày của bị đơn ông Đinh Thế P: Năm 2008 gia đình ông có nhận sang nhượng của ông Nguyễn Viết X thửa đất số 229d, tờ bản đồ số 02, diện tích 1.300m2, giáp mặt đường tỉnh lộ 1A có chiều rộng 7m, chiều dài khoảng 200m, chiều rộng phía sau là 6m. Được UBND huyện B cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AL 595944 ngày 09/4/2008, khi nhận chuyển nhượng đất của ông X thì có các hộ liền kề đều ký giáp ranh, trong đó có ông Nguyễn B (bố của ông H). Như vậy, đất của ông P và đất của ông H liền kề nhau.
Lời trình bày của bị đơn bà Ngô Thị Kim Y: Ngày 10/01/2003, chồng bà là ông Bun Mung L cùng với vợ chồng em gái bà Y là ông Bùi Lê A, bà Ngô Thị Kim L nhận sang nhượng của ông Nguyễn Đình H 01 thửa đất có chiều ngang 10m, chiều dài 200m. Khi nhận sang nhượng đất của ông H, thì ông H có mời ông Trương Minh C, bà Nguyễn Thị C có mặt. Các bên thống nhất thỏa thuận cắt 50m dài và ngang 10m phía sau tặng cho ông C, bà C. Thửa đất hai gia đình chúng tôi nhận sang nhượng có chiều ngang rộng 10m, chiều dài còn lại là 150m, thửa đất số 229b, tờ bản đồ số 01. Như vậy, đất vợ chồng ông A và vợ chồng bà Y mua có hướng Nam giáp với đất ông Trương Minh C.
Kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ thể hiện: Tính từ hướng Đông sang hướng Tây dọc theo tỉnh lộ 1, các đương sự và người liên quan trong vụ án đang sử dụng đất lần lượt như sau: Đất ông Hoàng Văn T; Đất ông Đinh Thế P; Đất ông Nguyễn Văn H; Đất bà Ngô Thị Kim Y; Đất ông Nguyễn Thành T (do nhận chuyển nhượng từ vợ chồng ông Bùi Lê A); Đất ông Trương Minh C.
Tuy nhiên, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho các đương sự và người liên quan lại có thứ tự (tính từ hướng Đông sang hướng Tây dọc theo tỉnh lộ 1) như sau: đất cấp cho ông Hoàng Văn H (chưa sang tên cho ông Hoàng Văn T); Thửa đất số 229d cấp cho ông Đinh Thế P; Thửa 229b cấp cho bà Ngô Thị Kim Y; Thửa 229a cấp cho ông Nguyễn Thành T; Thửa 225A cấp cho ông Nguyễn Văn H; Thửa 229 cấp cho ông Trương Minh C.
Như vậy, vị trí số thửa trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà UBND huyện B cấp cho ông Nguyễn Văn H, bà Ngô Thị Kim Y, ông Nguyễn Thành T không đúng với vị trí đất mà ông Nguyễn Văn H, bà Ngô Thị Kim Y, ông Nguyễn Thành T sử dụng trên thực tế.
Theo quy định tại khoản 4 Điều 34 Bộ luật Tố tụng dân sự thì khi giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp có xem xét hủy quyết định cá biệt thì thẩm quyền giải quyết được xác định theo quy định tương ứng của Luật tố tụng hành chính. Việc hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp trái quy định trong vụ án dân sự không phải là tranh chấp về dân sự nên không bắt buộc phải có đơn yêu cầu của đương sự.
Phần II Giải đáp 02/GĐ-TANDTC ngày 19 tháng 9 năm 2016 hướng dẫn như sau: Khi giải quyết vụ việc dân sự có liên quan đến quyết định cá biệt của cơ quan, tổ chức thì Tòa án phải xem xét, đánh giá về tính hợp pháp của quyết định cá biệt đó. Trường hợp việc xem xét hủy quyết định đó dẫn đến thay đổi thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự thì Tòa án nhân dân cấp huyện đang thụ lý giải quyết vụ việc dân sự phải chuyển vụ việc cho Tòa án nhân dân cấp tỉnh giải quyết và xem xét hủy quyết định đó.
Trong vụ án này, Tòa án cấp sơ thẩm phát hiện có việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không đúng quy định nhưng không chuyển hồ sơ cho Tòa án nhân dân cấp tỉnh giải quyết mà đưa ra xét xử là vi phạm về thẩm quyền.
(ii) Theo Giấy chứng nhận cấp cho hộ ông Đinh Thế P thì hướng Bắc thửa đất giáp đường tỉnh lộ 1A rộng 7m, hướng Nam rộng 6m. Ông P cũng thừa nhận đất của gia đình ông có chiều rộng hướng Bắc là 7m; chiều rộng hướng Nam là 6m như Giấy chứng nhận đã cấp. Tuy nhiên, sơ đồ hiện trạng vị trí thửa đất (do Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện B thực hiện) thể hiện đất của gia đình ông P đang sử dụng có hướng Bắc rộng 7,65m, Hướng Nam rộng 6,50m; biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ do Tòa án nhân dân huyện Buôn Đôn thực hiện thì đất của ông P sử dụng có hướng Bắc giáp đường tỉnh lộ 1 rộng 7,2m, hướng Nam giáp đất ông Võ Quốc B rộng 6,2m (bút lục 391 đến 395). Như vậy, số liệu không trùng khớp nhưng chưa được làm rõ kết quả nào là chính xác để làm căn cứ giải quyết vụ án.
Cấp sơ thẩm xác định đất của ông P đang sử dụng lớn hơn so với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, trong khi hiện trạng sử dụng đất của ông H đang thiếu so với Giấy chứng nhận (hẹp dần về phía sau), cấp sơ thẩm chưa làm rõ vấn đề này mà lại bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, kiến nghị cấp lại Giấy chứng nhận theo hiện trạng sử dụng là chưa đủ cơ sở.
(iii) Theo đơn khởi kiện, nguyên đơn có nêu: Hướng Tây thửa đất, tính từ mốc lộ giới kéo dài về sau 20m bà Y lấn sang 0,5m chiều ngang, từ 20m đến 150m bà Y lấn sang 02m. Giáp phần đuôi đất bà Y kéo dài đến cuối lô đất thì ông C đang sử dụng lấn sang 02m chiều ngang, chiều dài 50m, tổng diện tích khoảng 100m2. Buộc bà Y phải thỏa thuận với ông C để trả lại phần đất từ số mét 190 đến số mét 258 mà trước đây bà Y đã bán cho ông C.
Như vậy, đơn khởi kiện của nguyên đơn có yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp đối với phần diện tích đất mà hiện nay ông Trương Minh C đang sử dụng (là phần đất nằm ở hướng Nam, sau đất bà Y). Theo ông Trương Minh C thì diện tích đất này do ông Trương Minh C nhận cho tặng từ ông Nguyễn Đình H vào năm 2003, có vợ chồng bà Y, vợ chồng ông A chứng kiến. Ông C có đề nghị đo đạc lại, nếu diện tích sử dụng lớn hơn diện tích nhận cho tặng thì ông chấp nhận trả lại cho nguyên đơn. Đáng lẽ, cấp sơ thẩm phải yêu cầu nguyên đơn sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện và xác định vợ chồng ông Trương Minh C là bị đơn trong vụ án mới giải quyết đầy đủ các yêu cầu của nguyên đơn, nhưng chỉ đưa ông C vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, không xem xét, đánh giá ông Trương Minh C có sử dụng lấn sang đất của nguyên đơn như trong đơn khởi kiện đã nêu hay không là bỏ sót yêu cầu của nguyên đơn.
5. Bản án dân sự phúc thẩm số 36/2023/DS-PT ngày 07/7/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Nội dung hủy án:
Về kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tuyên Quang:
Quyết định kháng nghị số 01 QĐ-VKS-DS ngày 14/02/2023 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tuyên Quang đối với bản n sơ thẩm số 02/2023/DS-ST ngày 17/01/2023 của Toà án nhân dân huyện S.D được thực hiện trong thời hạn luật định.
Xét kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tuyên Quang, Hội đồng xét xử thấy rằng:
- Nguyên đơn ông Vũ Đình P và bà Bùi Thị Hoàng M có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Ngô Đình Th và bà Nguyễn Thị Kim X có nghĩa vụ giao trả toàn bộ nhà đất theo đúng nội dung Giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất lập ngày 31/10/2012. Trong vụ án những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập nhưng T a n cấp sơ thẩm tuyên xử: Giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày 20/9/2012 giữa bà Dương Thị U, ông Nguyễn Xuân Y, bà Đỗ Thị Ng với ông Ngô Đình Th và bà Nguyễn Thị Kim X vô hiệu; bà U được quyền sử dụng 674,7m2 đất tại thửa số 90, tờ bản đồ số 117 thuộc Tổ dân phố Đ.K, thị trấn S.D, huyện S.D, tỉnh Tuyên Quang và toàn bộ tài sản sản gắn liền với đất là vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện, vi phạm quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự.
- Theo đơn khởi kiện của ông Vũ Đình P và bà Bùi Thị Hoàng M đề nghị Tòa án giải quyết buộc ông Ngô Đình Th và bà Nguyễn Thị Kim X phải giao lại nhà đất theo đúng nội dung Giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất lập ngày 31/10/2012. Quá trình giải quyết vụ n x c định thửa đất có tranh chấp theo bản đồ giải thửa 299 là thửa số 12, tờ bản đồ số 36, diện tích 650,6m2; theo đo đạc hiện trạng đất năm 2012 là thửa đất số 90, tờ bản đồ số 117, diện tích 674m2; theo kết quả đo đạc hiện trạng diện tích 674,7m2; địa chỉ thửa đất tại Tổ dân phố Đ.K, thị trấn S.D, huyện S.D, tỉnh Tuyên Quang. Nguồn gốc thửa đất do Công ty cổ phần chè Tân Trào quản lý và giao quyền sử dụng cho bà Dương Thị U, bà U được giao 01 sổ bìa xông, đất chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Ngày 20/9/2012, bà Dương Thị U chuyển nhượng toàn bộ diện tích đất và tài sản gắn liền trên đất cho ông Ngô Đình Th và bà Nguyễn Thị Kim X với giá 170.000.000 đồng, ông Th, bà X mới trả được 50.000.000 đồng, hẹn trong 01 tháng sẽ trả nốt số tiền còn lại là 120.000.000 đồng, 02 bên thoả thuận cho bà U mượn lại nhà để ở trong thời gian 01 tháng chờ con trai bà U xây xong nhà thì chuyển bà U về ở tại tỉnh Quảng Ninh. Đến hẹn ông Th, bà X không trả hết tiền cho bà U, nhưng ngày 31 10 2012 Ông Th và bà X đã viết giấy chuyển nhượng lại nhà đất trên cho ông Vũ Đình P và bà Bùi Thị Hoàng M. Việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất giữa các bên có viết giấy tờ, có xác nhận của Tổ trưởng tổ dân phố. Trước khi thực hiện việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông P, bà M thì diện tích đất trên vẫn thuộc quyền sử dụng của bà U, chưa thuộc quyền sử dụng của ông Th, bà X. Thời điểm bà U viết Giấy chuyển nhượng đất và tài sản gắn liền với đất cho Ông Th và bà X thì bà U chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, bà U chưa giao nhà đất cho ông Th, bà X và ông Th, bà X cũng chưa trả đủ tiền cho bà U theo thoả thuận. Ông Th, bà X chưa làm thủ tục để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhưng ông Th và bà X lại chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất cho ông P và bà M. Việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất của các đương sự như trên là không đúng quy định tại khoản 1, Điều 106 Luật Đất đai năm 2003. Toà án cấp sơ thẩm tuyên xử:...Giấy chuyển nhượng quyền sử đất và tài sản gắn liền với đất ngày 31/10/2012 giữa ông Ngô Đình Th và bà Nguyễn Thị Kim X với ông Vũ Đình P và bà Bùi Thị Hoàng M vô hiệu là có căn cứ. Tuy nhiên, việc giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu chưa đúng quy định của pháp luật, vì: Khi viết Giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ông P và bà M biết nguồn gốc đất do Ông Th và bà X nhận chuyển nhượng của bà U ngày 20/9/2012, do ông Th, bà X chưa trả hết tiền nên bà U vẫn đang quản lý, sử dụng nhà đất, chưa bàn giao cho ông Th, bà X, chưa làm c c thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật. Ông Th và bà X chưa có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhưng giữa ông Th, bà X với ông P , bà M lại thực hiện việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất. Như vậy, c c bên đương sự đều có lỗi, nhưng T a cấp sơ thẩm x c định lỗi hoàn toàn thuộc về Ông Th và bà X, buộc ông Th và bà X phải chịu trách nhiệm toàn bộ lỗi do hợp đồng bị tuyên vô hiệu là chưa đúng quy định tại khoản 2, khoản 4, Điều 131 Bộ luật dân sự.
Quá trình giải quyết vụ n, nguyên đơn ông P và bà M trình bày nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất với ông Th và bà X giá chuyển nhượng là 350.000.000 đồng; ông Th, bà X trình bày do hoàn cảnh, ông chị có vay của ông P, bà M số tiền 100.000.000 đồng để chữa bệnh cho con gái, sau đó không trả được nên ông P đã yêu cầu ông Th chuyển nhượng lại nhà đất trên. Qua trình bày của các đương sự có mâu thuẫn về nguyên nhân dẫn đến việc giữa các bên viết Giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất và giá trị nhà đất, chưa có căn cứ x c định ông Th và bà X đã giao nhận đủ số tiền 350.000.000 đồng như nguyên đơn trình bày, nhưng T a n cấp sơ thẩm tuyên buộc ông Th và bà X có nghĩa vụ trả lại tiền cho ông P và bà M tương đương giá trị tài sản theo kết quả định giá ngày 11/8/2022 với giá trị 700.000.000 đồng, chịu chi phí thẩm định và định giá tài sản 6.045.000 đồng, phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch 300.000 đồng và án phí dân sự có giá ngạch 32.000.000 đồng là chưa đủ căn cứ, ảnh hưởng đến quyền lợi của ông Th và bà X.
Tại phiên tòa phúc thẩm người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn là bà Vũ Thị A vẫn giữ nguyên việc rút đơn khởi kiện, đồng thời yêu cầu ông Th phải trả cho bà Bùi Thị Hoàng M 500.000.000đ thì bà không khởi kiện nữa. Ông Th không đồng ý các yêu cầu của nguyên đơn. Do vậy, Hội đồng xét xử không chấp nhận việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn và tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục chung.
Từ những đ nh gi nêu trên, Hội đồng xét xử thấy rằng: Việc giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm còn thiếu sót trong việc đ nh gi chứng cứ; xác định lỗi của các bên chưa đúng khi giải quyết về hậu quả của hợp đồng vô hiệu; giải quyết vụ n vượt quá phạm vi khởi kiện của đương sự, những sai sót trên không Thể bổ sung được tại cấp phúc thẩm. Xét, kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tuyên Quang là có căn cứ nên chấp nhận. Vì vậy, cần Hủy bản án dân sự sơ thẩm số 02/2023/DS-ST ngày 17/01/2023 của Toà án nhân dân huyện S.D, chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm nhằm đảm bảo quyền lợi cho đương sự.
6. Bản án dân sự phúc thẩm số 45/2024/DS-PT ngày 29/3/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng về tranh chấp hợp đồng tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Nội dung sửa án:
Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng nội dung vụ án, ông Mầu Tiến C1 kháng cáo nhưng không xuất trình được các tài liệu, chứng cứ nào mới để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình nên không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của ông C1. Tuy nhiên; trong trong trường hợp này lẽ ra chỉ cần tuyên vô hiệu hợp đồng nói trên; cấp sơ thẩm lại tuyên “Hủy bỏ Giấy sang nhượng đất lập ngày 01/5/2008 giữa ông Nguyễn Bá M, bà Phạm Thị Xuân H2 với ông Mầu Tiến C1 không còn giá trị” là không cần thiết nên cần sửa cách tuyên đối với trường hợp này.
7. Bản án dân sự phúc thẩm số 21/2024/DS-PT ngày 30/01/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Nội dung sửa án:
Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện theo uỷ quyền của ông V cho rằng kết quả định giá của Hội đồng định giá Toà án cấp sơ thẩm là không đúng vì Hội đồng định giá cấp sơ thẩm chỉ căn cứ giá nguyên đơn đưa ra và căn cứ giá đất trên thị trường là không đúng. Tuy nhiên, ngoài lời trình bày trên thì người đại diện theo uỷ quyền của ông V không đưa ra được căn cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình. Hơn nữa, trong quá trình giải quyết ở Toà án cấp sơ thẩm ông V đều tham gia và biết kết quả định giá nhưng ông V không có ý kiến gì về kết quả định giá của Hội đồng định giá. Do vậy, yêu cầu định giá lại của bị đơn không được Hội đồng xét xử chấp nhận. Theo kết quả định giá tài sản của Hội đồng định giá tài sản huyện Ph ngày 19/8/2022 tổng giá trị đất và tài sản gắn liền trên đất là 1.660.608.000 đồng. Ngoài việc phải trả cho bà Thsố tiền đã nhận là 45.000.000 đồng thì ông V bà D còn phải bồi thường cho bà Thsố tiền là 1.660.608.000 đồng – 45.000.000 đồng = 1.615.608.000 đồng x 60% = 969.364.000 đồng. Tổng cộng ông V bà D phải trả cho bà Thtổng số tiền là 1.014.364.000 đồng. Như vậy, kháng cáo của ông V được chấp nhận một phần, cụ thể buộc ông V bà D có nghĩa vụ liên đới trả cho bà Thtổng số tiền là 1.014.364.000 đồng.
8. Bản án dân sự phúc thẩm số 270/2023/DS-PT ngày 05/12/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh An Giang về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Nội dung sửa án:
Lẽ ra giữ nguyên bản án sơ thẩm, tuy nhiên do cấp sơ thẩm nhận định hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 15/7/2022 giữa ông T và ông H là vô hiệu nhưng ở phần Quyết định khi tuyên lại Hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 15/7/2022 và cho rằng nguyên đơn rút phần yêu cầu tiền bồi thường thiệt hại 39.840.000đồng tại phiên tòa sơ thẩm, chỉ yêu cầu tính bồi thường thiệt hại theo lãi suất chậm trả pháp luật quy định để tuyên đình chỉ xét xử yêu cầu buộc ông H trả số tiền 39.840.000đồng là không chính xác. Vì trong trường hợp này phải tuyên Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 15/7/2022 giữa ông T và ông H là vô hiệu và nguyên đơn chỉ thay đổi yêu cầu khởi kiện luật theo khoản 1 Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự: vẫn có yêu cầu xem xét bồi thường thiệt hại từ số tiền cụ thể thay đổi yêu cầu tính theo quy định pháp. Vì vậy, Hội đồng xét xử phúc thẩm cần sửa cách tuyên của cấp sơ thẩm và cấp sơ thẩm cần rút kinh nghiệm nội dung trên.
9. Bản án dân sự phúc thẩm số 41/2023/DS-PT ngày 15/8/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Nội dung sửa án:
Xét kháng cáo của ông D cho rằng cấp sơ thẩm buộc ông trả lại số tiền 215.800.000 đồng là quá cao so với số tiền ông đã nhận của anh Q 1.000.000 đồng từ năm 2008, Hội đồng xét xử thấy: Cấp sơ thẩm tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu và xác định việc bồi thường thiệt hại do hợp đồng vô hiệu theo hướng dẫn tại Nghị quyết 01/2003/NQ-HĐTP- TANDTC ngày 16/4/2003 và Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP- TANDTC ngày 10/8/2004 của Tòa án Tối cao là có căn cứ. Tuy nhiên về mức bồi thường hội đồng xét xử thấy: Tiền chênh lệch giữa giá thị trường hiện tại và giá thị trường tại thời điểm giao kết hợp đồng, trong đó người nhận chuyển nhượng mới trả 1/5 số tiền, tương ứng với thiệt hại là 215.800.000 đồng. Trong việc này, cả hai bên đều có lỗi ngang nhau dẫn đến việc hợp đồng không thực hiện được. Bên nhận chuyển nhượng và bên chuyển nhượng đều biết rõ đất chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, chưa đủ điều kiện để chuyển nhượng nhưng xác lập hợp đồng, vì vậy mỗi bên phải chịu 50% thiệt hại. Từ nhận định trên, chấp nhận 1 phần kháng cáo của ông Đinh Quang D, buộc bị đơn phải trả cho nguyên đơn số tiền 107.900.000 đồng.
10. Bản án dân sự phúc thẩm số 242/2023/DS-PT ngày 07/7/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh về tranh chấp quyền sử dụng đất.
Nội dung sửa án:
Xét lời trình bày của chị L: phần đất tranh chấp nêu trên có nguồn gốc là của cụ Nguyễn Thị Đ và cụ Phạm Văn Y (cha mẹ chị) khai phá nhưng vào năm nào thì anh, chị không nhớ, cụ Y, cụ Đ chỉ làm được 01 vụ lúa/năm. Đến năm 1992, sau khi ông Y chết, cụ Đ kê khai đăng ký và được Ủy ban nhân dân huyện Châu Thành cấp GCNQSDĐ. Đến năm 1995, cụ Đ tặng cho vợ chồng anh, chị toàn bộ diện tích đất bà Đ được cấp giấy và anh, chị sản xuất lúa. Năm 1996, lúa bị nước lụt nên toàn bộ diện tích đất ruộng anh, chị sản xuất bị hư. Năm 1997, anh chị tiếp tục sản xuất thêm 01 vụ lúa nhưng bị chuột ăn, sau đó anh chị ngưng không sản xuất lúa nữa. Lời trình bày của chị L mâu thuẫn với biên bản lấy lời khai ngày 13/12/2019 (Bút lục 74) chị L khai: “Thực tế phần đất tranh chấp vợ chồng tôi không biết nằm trong giấy đất của vợ chồng tôi đứng tên nên trước thời điểm xảy ra tranh chấp ai sản xuất vợ chồng tôi không ngăn cản vì không biết đất của vợ chồng tôi. Đến thời điểm chị L yêu cầu Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Tây Ninh – Chi nhánh Châu Thành đo đạc và phát hiện đất chị L chuyển nhượng nằm trong 02 giấy CNQSDĐ do vợ chồng tôi đứng tên”. Điều đó cho thấy, đất này không phải của gia đình chị L, vì trước khi xảy ra tranh chấp gia đình chị L không có ai sử dụng (mặc dù chị L có đất liền kề với đất tranh chấp), mà đất này do ông Ch canh tác, sau đó là ông V và cuối cùng từ năm 2014 đến nay người sử dụng là vợ chồng chị L. Ngoài ra, khi cấp GCNQSDĐ cho cụ Đ vào năm 1992 cơ quan tham mưu cho UBND huyện không xem xét thực địa dẫn đến cấp đất sai thửa. Toà án có văn bản yêu cầu Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Tây Ninh – Chi nhánh huyện Châu Thành cung cấp hồ sơ cấp GCNQSDĐ cho cụ Đ nhưng được trả lời hồ sơ thất lạc, trong hồ sơ đăng ký chỉ có đơn xin đăng ký quyền sử dụng đất (bản pho to) do chị L nộp. Cấp sơ thẩm chỉ căn cứ vào GCNQSDĐ chị L, anh L được cấp đã không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị L và chấp nhận yêu cầu phản tố của chị L anh L đối với chị L mà chưa xem xét quá trình sử dụng đất, người trực tiếp sử dụng đất là chưa đánh giá toàn diện về chứng cứ. Qua xem xét quá trình sử dụng đất nhận thấy phía nguyên đơn đã sử dụng đất này liên tục đến năm 2019, chính chị L là người thông báo cho chị L đất cấp sai thửa thì chị L mới biết, còn từ năm 2019 trở về trước chị L không có tranh chấp đất này. Do đó, chị L có đủ điều kiện để được Nhà nước xem xét cấp GCNQSDĐ theo Điều 101 của Luật Đất đai và các Điều 158, 161 của Bộ luật dân sự. Chị L, anh L được cấp GCNQSDĐ không đúng vị trí, không đúng đối tượng theo quy định tại điểm c Điều 64, điểm d khoản 2 Điều 106 của Luật Đất đai nên phải có nghĩa vụ trả lại quyền sử dụng đất diện tích 5.163,3 m2 thuộc các thửa 1474, 1475 và một phần của các thửa 1064, 1065, 1066, 1067, 1473, 1476, 1477, tờ bản đồ số 5/299 (tương ứng một phần của thửa 180, tờ bản đồ 13 theo bản đồ địa chính VN 2000) đất toạ lạc tại ấp X M, xã TB, huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh.
Từ nhận định trên, Hội đồng xét xử có căn cứ chấp nhận kháng cáo, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị L, không chấp nhận yêu cầu phán tố của chị L, anh Lẵng; sửa án sơ thẩm.