Tổng hợp 10 bản án hủy, sửa về việc tranh chấp quyền sử dụng đất

MỤC LỤC

1. Bản án dân sự phúc thẩm số 1148/2018/DSPT ngày 30/11/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về việc tranh chấp quyền sử dụng đất

2. Bản án dân sự phúc thẩm số 03/2017/DS-PT ngày 19/7/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị về việc tranh chấp quyền sử dụng đất

3. Bản án dân sự phúc thẩm số 66/2024/DS-PT ngày 10/4/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu về việc tranh chấp quyền sử dụng đất

4. Bản án dân sự phúc thẩm số 132/2024/DS-PT ngày 26/6/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu về việc tranh chấp quyền sử dụng đất

5. Bản án dân sự phúc thẩm số 54/2024/DS-PT ngày 08/5/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Hậu Giang về việc tranh chấp quyền sử dụng đất

6. Bản án dân sự phúc thẩm số 85/2024/DS-PT ngày 29/3/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh An Giang về việc tranh chấp quyền sử dụng đất

7. Bản án dân sự phúc thẩm số 274/2024/DS-PT ngày 19/6/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh về việc tranh chấp quyền sử dụng đất

8. Bản án dân sự phúc thẩm số 129/2024/DS-PT ngày 25/3/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp về việc tranh chấp quyền sử dụng đất

9. Bản án dân sự phúc thẩm số 83/2024/DS-PT ngày 06/6/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh về việc tranh chấp quyền sử dụng đất

10. Bản án dân sự phúc thẩm số 29/2024/DS-PT ngày 23/3/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên về việc tranh chấp quyền sử dụng đất

 

1. Bản án dân sự phúc thẩm số 1148/2018/DSPT ngày 30/11/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về việc tranh chấp quyền sử dụng đất

Nội dung hủy án:

(i) Xét đơn kháng cáo của bà X và ông H có cùng nội dung giống như nhau tuy nhiên theo bản án sơ thẩm thì tư cách của bà X và ông H tham gia tố tụng khác nhau. Ông H cho rằng đất cấp cho hộ nhưng bà X tiến hành thỏa thuận không nhân danh đại diện chủ hộ, không có sự đồng ý của ông. Bà X cũng kháng cáo với nội dung như vậy trong khi bản án sơ thẩm nhận định bà X là người trực tiếp giao dịch nhưng cấp sơ thẩm không kiểm tra nội dung đơn kháng cáo theo Điều 274 Bộ luật Tố tụng dân sự để yêu cầu bà X sửa đổi, bổ sung kháng cáo cho đúng theo quy định của Điều 272 Bộ luật Tố tụng Dân sự mà vẫn chấp nhận đơn kháng cáo là không đúng quy định đã viện dẫn ở trên.

(ii) Theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 243/QSDĐ/Hưng Long ngày 09/10/2001 do Ủy ban nhân dân huyện C cấp cho hộ bà Trần Thị X trong đó thửa 251 tờ bản đồ số 13 có diện tích 858m2. Giấy chứng nhận nêu trên được cấp cho Hộ gia đình bà Trần Thị X theo Quyết định số 113/QĐ-UB ngày 19 tháng 4 năm 1995. Tại đơn xin đăng ký quyền sử dụng ruộng đất của bà Trần Thị X ngày 17/8/1994 thể hiện tại thời điểm xin cấp Giấy chứng nhận số nhân khẩu trong hộ bà Xê là 03 người. Tại công văn cung cấp thông tin ngày 01/12/2017 của Uỷ ban nhân dân xã L và Công văn số 4187/TNMT-PC của Phòng Tài nguyên và Môi trường - Ủy ban nhân dân huyện C thể hiện nguồn gốc đất là cấp cho hộ bà Trần Thị X. Tuy nhiên hồ sơ cấp Giấy chứng nhận không thể hiện cụ thể hộ gia đình bà Trần Thị X bao gồm những nhân khẩu nào. Theo quy định tại Mục 1 Chương IV Bộ luật dân sự 1995 về hộ gia đình và theo hướng dẫn tại khoản 4 phần 3 Văn bản số 01/2017/GĐ-TANDTC ngày 07/4/2017 giải đáp một số vấn đề nghiệp vụ thì trong trường hợp này, Tòa án cấp sơ thẩm cần tiến hành xác minh tại thời điểm được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì hộ bà X có bao nhiêu nhân khẩu để đưa những người đó tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan mới đảm bảo quyền lợi chính đáng của họ.

Hơn nữa, tại phiên tòa phúc thẩm các đương sự trình bày năm 2008 giữa ông Trần Phát H và ông Nguyễn Thanh H có thỏa thuận về việc đổ đất lấp ao và phân chia đôi phần đất này. Thỏa thuận đổ đất, lấp ao của ông Nguyễn Thanh H và ông Trần Phát H xảy ra sau khi bà X đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 243/QSDĐ/Hưng Long ngày 09/10/2001. Đại diện nguyên đơn còn cho biết, tại thời điểm xin cấp Giấy chứng nhận, hộ bà X bao gồm các nhân khẩu: Trần Thị X, Trần Phát H, Trần Ngọc X. Xét thấy, tại phiên tòa phúc thẩm có sự mâu thuẫn về lời khai khi ông Trần Phát H cho rằng ông là người đứng ra thỏa thuận lấp ao với ông Nguyễn Thanh H, người đại diện theo ủy quyền của bị đơn và nguyên đơn cũng thừa nhận nội dung trên. Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn cho biết bà Trần Ngọc X là nhân khẩu trong hộ khẩu của bà Trần Thị X từ năm 1976 đến năm 2013 mới tách khẩu. Do đó, Hội đồng xét xử nhận thấy, đất cấp cho hộ gia đình nên cần thiết phải đưa các thành viên của hộ tham gia tố tụng, ghi nhận ý kiến của họ về nội dung thỏa thuận giữa ông Trần Phát H và ông Nguyễn Thanh H. Tòa án cấp sơ thẩm chỉ căn cứ vào thỏa thuận miệng của bà X và ông H mà công nhận phần đất tranh chấp cho ông H là chưa đủ căn cứ. Việc cấp sơ thẩm không xác minh và đưa các thành viên hộ bà Trần Thị X tại thời điểm cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án này là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.

(iii) Theo trình bày của các đương sự, sau khi đổ đất lấp ao phía ông H có xây dựng hàng rào xác định ranh và phía bà X cũng xây dựng hàng rào. Ngoài ra, ông H cho rằng diện tích đất tranh chấp do ông và gia đình thực tế quản lý sử dụng từ trước năm 1975 đến nay. Tuy nhiên theo Bản đồ hiện trạng vị trí số 10387/ĐĐBĐ_VPTP, ngày 24/07/2015 và Bản đồ hiện trạng vị trí số 100091/ĐĐBĐ_VPTP, ngày 26/12/2014 của Trung tâm đo đạc bản đồ – Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh không thể hiện rõ có hàng rào hay không. Tòa án cấp sơ thẩm không tiến hành xem xét, thẩm định tại chỗ để xác định hiện trạng có hàng rào như lời trình bày của đương sự không, ai là người xây dựng hàng rào và xây dựng vào thời điểm nào. Từ đó xem xét đánh giá việc phân chia8 phần đất tranh chấp đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nguyên đơn có hợp pháp hay không mới có cơ sở chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn hay chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn một cách toàn diện khách quan. Vì vậy, việc xác minh thu thập chứng cứ của Tòa án sơ thẩm đối với nội dung này là chưa đầy đủ.

(iv) Đối với việc áp dụng pháp luật của Tòa án cấp sơ thẩm, bà Trần Thị X tranh chấp quyền sử dụng đất với ông Nguyễn Thanh H nhưng Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng Điều 106 và Điều 136 Luật đất đai năm 2013; Điều 192 Bộ luật dân sự năm 2005 để giải quyết vụ án là chưa phù hợp. Bởi lẽ cấp sơ thẩm cho rằng xuất phát từ giao dịch bằng miệng về việc phân chia quyền sử dụng đất vào thời điểm năm 2008. Do đó pháp luật áp dụng là Luật Đất đai năm 2003 và các quy định về giao dịch chuyển quyền sử dụng đất theo Bộ luật dân sự năm 2005 để xem xét giải quyết mới phù hợp. Xét trình bày của người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nguyên đơn đối với nội dung trên là có cơ sở nên chấp nhận.

(v) Án sơ thẩm chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn công nhận phần đất tranh chấp cho phía bị đơn nhưng lại kiến nghị Ủy ban nhân dân huyện C thu hồi, điều chỉnh Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho bà X là vi phạm Điều 34 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

(vi) Về án phí: bản án sơ thẩm xác định nguyên đơn phải chịu án phí có giá ngạch khi các bên chỉ yêu cầu xác định phần đất tranh chấp là thuộc quyền sử dụng của ai mà Toà án không xem xét giá trị của phần đất tranh chấp là không đúng với quy định tại điểm a khoản 2 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.

2. Bản án dân sự phúc thẩm số 03/2017/DS-PT ngày 19/7/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị về việc tranh chấp quyền sử dụng đất

Nội dung hủy án 

(i) Kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Văn N. Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng: Ngày 14/11/1997 hộ bà Nguyễn Thị B được Ủy ban nhân dân huyện T cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diện tích 521m2, thửa đất số 149, tờ bản đồ số 14 ở tại Thôn A, xã T, huyện T, tỉnh Quảng Trị. Quá trình Tòa án giải quyết vụ án nhưng không đưa anh Nguyễn Văn D, sinh năm 1983; chị Nguyễn Thị Thanh L, sinh năm 1985; chị Nguyễn Thị Thu H, sinh năm 1990; chị Nguyễn Thị Kim P, sinh năm 1995 là các con của ông Nguyễn Văn N và bà Nguyễn Thị B vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Mặc dù, ông N có đề nghị là không đưa các con của ông N, bà B vào tham gia tố tụng, nhưng theo quy định tại khoản 4 Điều 68 của Bộ luật Tố tụng dân sự: Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự là người tuy không khởi kiện, không bị kiện, nhưng việc giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của …một người nào đó mà không có ai đề nghị đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan thì Tòa án phải đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Do Tòa án cấp sơ thẩm không đưa các con của ông N, bà B vào tham gia tố tụng là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.

(ii) Tại bản án dân sự sơ thẩm số 01/2017/DSST ngày 26/4/2017 của Tòa án nhân dân huyện T đã quyết định tuyên buộc ông Nguyễn Văn N và bà Nguyễn Thị B phải tháo dỡ toàn bộ tường rào của ông N và bà B đã xây dựng trên phần đất của nhà bà B có chiều dài 7,96m; tường rào này kéo dài từ tường nhà bà B đến giáp đường liên thôn ( đường khu vực), nhưng Tòa án cấp sơ thẩm lại không tuyên trả lại diện tích đất này cho ai được sử dụng.

Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn trả lại diện tích đất bị lấn chiếm là 35m2, nhưng Quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm lại không tuyên diện tích đất được chấp nhận cho nguyên đơn là bao nhiêu? không chấp nhận là bao nhiêu? Như vậy, yêu cầu của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Như B chưa được Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết.

3. Bản án dân sự phúc thẩm số 66/2024/DS-PT ngày 10/4/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu về việc tranh chấp quyền sử dụng đất

Nội dung hủy án 

(i) Các đương sự xác nhận ông Lê H1 (Thích Kiến T3) và ông Minh P đã chết, ông T3 chết năm 2012 có giấy chứng tử. Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà H, ông L, chấp nhận yêu cầu phản tố của bà L1, công nhận cho bà L1 cùng các con của bà L1 là Lưu Minh D, Lưu Minh Đ, Lưu Minh T, Lưu Minh T1 và Lưu Minh L2 được quyền quản lý, sử dụng diện tích đất 831m2 thuộc thửa 548 (nay là thửa 100), tờ bản đồ số 78, xã B, huyện X, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Nhưng, Tòa án cấp sơ thẩm không đưa người thừa kế của ông Lê H1 (Thích Kiến T3) và ông Minh P tham gia tố tụng giải quyết vụ án với tư cách là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan để làm rõ ý kiến và yêu cầu của họ trong việc giải quyết vụ án là chưa bảo đảm quyền lợi của họ, chưa bảo đảm giải quyết vụ án.

(ii) Tại Biên bản xác minh ngày 26/5/2022, Ủy ban nhân dân xã B xác nhận đất tranh chấp nằm trong tổng diện tích 440 ha mà Ủy ban nhân dân tỉnh B đã có quyết định thu hồi số 2465/QĐ-UBND ngày 09/11/2012, về việc thu hồi đất, do Công ty cổ phần cao su Thống nhất tỉnh C6 quản lý nhưng thực tế không sử dụng và tự nguyện giao trả cho Nhà nước, trong đó có phần 831m2 mà bà H và bà L1 đang tranh chấp, để xã quản lý (BL 195). Để bảo đảm giải quyết vụ án, cần phải làm rõ việc Ủy ban nhân dân tỉnh B thu hồi đất và giao cho xã quản lý nêu trên như thế nào, việc quản lý đất của xã ra sao để giải quyết. Nội dung này chưa được làm rõ tại Tòa án cấp sơ thẩm.

4. Bản án dân sự phúc thẩm số 132/2024/DS-PT ngày 26/6/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu về việc tranh chấp quyền sử dụng đất

Nội dung hủy án 

(i) Như nhận định ở phần trên, theo Mảnh trích đo địa chính ngày 03/11/2023 của Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai huyện L thể hiện bà Nguyễn Thị T chỉ ranh đất tranh chấp là các điểm G-F-X-8-7-6-5-4-G diện tích là 118,6m2 thuộc các thửa 43, 44, 83 và 182. Phía nguyên đơn xác nhận phần đất của nguyên đơn thuộc thửa 43 và 83. Khi giải quyết cần phải xác minh quyền sử dụng đất thửa 44, 182 là của ai, nếu có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án để giải quyết. Tòa án cấp sơ thẩm chưa thực hiện nội dung này là chưa bảo đảm.

(ii) Trong vụ án, nguyên đơn bà Nguyễn Thị T tranh chấp về lối đi vào phần đất của mình, do vậy cần phải xác định bà T có quyền sử dụng phần đất tiếp giáp lối đi đang tranh chấp hay không để giải quyết, nội dung này chưa được làm rõ.

(iii) Trường hợp bà T có quyền sử dụng đất bị vây bọc bởi các bất động sản của các chủ sở hữu khác mà không có hoặc không đủ lối đi ra đường công cộng thì phải xem xét yêu cầu của bà T về lối đi đang tranh chấp trong vụ án có thuận tiện và hợp lý nhất hay không để giải quyết, nội dung này chưa được làm rõ.

5. Bản án dân sự phúc thẩm số 54/2024/DS-PT ngày 08/5/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Hậu Giang về việc tranh chấp quyền sử dụng đất

Nội dung hủy án 

(i) Tại đơn khởi kiện ngày 16/9/2022, nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án công nhận phần đất có diện tích khoảng 01 công (tương đương khoảng 1000m2) thuộc quyền sở hữu của nguyên đơn và buộc ông Huỳnh Văn Đ phải tách thửa cho nguyên đơn. Ngày 04/11/2022, Tòa án cấp sơ thẩm tiến hành thụ lý giải quyết vụ án theo yêu cầu của nguyên đơn. Sau khi Tòa án tiến hành thẩm định phần đất tranh chấp thì diện tích phần đất tranh chấp là 1.124,5m2 thuộc thửa đất số 84, tờ bản đồ số 10 theo Mảnh trích đo địa chính số 18 ngày 27/02/2023, phần đất này bị đơn đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS05017 cấp ngày 08/9/2022. Hội đồng xét xử nhận thấy sau khi đo đạc, thẩm định phần đất tranh chấp thì diện tích có tăng so với diện tích nguyên đơn khởi kiện ban đầu nhưng nguyên đơn không có đơn yêu cầu khởi kiện bổ sung và Tòa án không tiến hành thụ lý bổ sung về phần diện tích tăng thêm so với yêu cầu khởi kiện ban đầu. Tòa án cấp sơ thẩm lại tuyên xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Nguyễn Văn K công nhận phần đất có diện tích 1.124,5m. Đất tọa lạc tại ấp Đ, thị trấn N, huyện C, tỉnh Hậu Giang thuộc quyền sở hữu của nguyên đơn Nguyễn Văn K. Việc công nhận diện tích 1.124,5m cho nguyên đơn là vượt quá yêu cầu khởi kiện ban đầu của nguyên đơn.

(ii) Theo lời trình bày của nguyên đơn thì nguyên đơn đã ở và canh tác trên phần đất được ông M cho kể từ năm 1992 đến nay nhưng vào ngày 22/5/2022 nguyên đơn mới biết là phần đất này do ông Đ đứng tên. Gia đình bị đơn cũng họp mặt các thành viên trong gia đình vào ngày 01/6/2022 để cho ông K phần đất. Hội đồng xét xử nhận thấy phần đất ông Huỳnh Văn M đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào ngày 20/9/1993, nguyên đơn cho rằng được cho vào năm 1992 vậy thời điểm ông M được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và chỉnh lý biến động sang tên cho ông Huỳnh Văn Đ vào ngày 05/6/2007 thì nguyên đơn là người ở và canh tác trực tiếp phần đất này lại không có tranh chấp. Đến ngày 22/5/2022 thì nguyên đơn mới biết phần đất do ông Đ đứng tên và phát sinh tranh chấp nhưng bị đơn vẫn được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS05017 ngày 08/9/2022. Tòa án cấp sơ thẩm chưa tiến hành thu thập ý kiến của cơ quan có thẩm quyền về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho gia đình bị đơn từ ông Huỳnh Văn M sau đó chuyển thừa kế cho ông Huỳnh Văn Đ và việc cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Huỳnh Văn Đ vào năm 2022 có đúng theo quy định hay không. Từ đó, không đưa cơ quan cơ quan có thẩm quyền về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án là thiếu sót.

(iii) Nguyên đơn cho rằng ông Huỳnh Văn M cho đất ông với điều kiện phải trả nợ cho Hội cựu chiến binh số tiền 7.000.000 đồng, vợ chồng nguyên đơn đồng ý trả và đưa số tiền cho bà L. Bà Võ Mỹ L lại không thừa nhận có nhận số tiền 7.000.000 đồng của nguyên đơn. Xét thấy đương sự có mâu thuẫn đối với số tiền trên nhưng Tòa án cấp sơ thẩm lại không tiến hành đối chất để làm rõ số tiền là thiếu sót.

6. Bản án dân sự phúc thẩm số 85/2024/DS-PT ngày 29/3/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh An Giang về việc tranh chấp quyền sử dụng đất

Nội dung sửa án:

Như phần trên đã nhận định phần đất bãi bồi 290,8m2 là đất do nhà nước quản lý, ông B có công bồi đắp và có nhu cầu sử dụng đất nên đủ điều kiện để Nhà nước cho thuê đất hoặc kê khai đăng ký quyền sử dụng đất. Do đó phía nguyên đơn khởi kiện yêu cầu công nhận diện tích đất bãi bồi 290,8m2 và được kê khai đăng ký quyền sử dụng đất là không có cơ sở.

Đối với yêu cầu phản tố của ông B và kháng nghị của Viên trưởng viện kiểm sát nhân dân huyện An Phú đều đề nghị công nhận diện tích đất bãi bồi 290,8m2 cho ông B và ông B được kê khai cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Hội đồng xét xử nhận thấy, phần đất ông B nhận chuyển nhượng 384m2 theo tờ bán đất thổ cư ngày 06/5/2014 thể hiện “…mặt tiền chạy thẳng tới mé sông nước với giá tiền 60.000.000 đồng…”, liền kề mé sông nước là đất bãi bồi nhưng chưa rộng, nước còn ngập, năm 2015, 2016 được bồi tụ nhiều hơn và được ông B bồi đắp để trồng hoa màu, cất trại nhỏ trên đất (đã xuống cấp). Cho thấy ông B có nhu cầu sử dụng đất, có công bồi đắp và đã sử dụng đất nên được Nhà nước xem xét cho thuê đất hoặc kê khai đăng ký quyền sử dụng đất theo quy định pháp luật.

7. Bản án dân sự phúc thẩm số 274/2024/DS-PT ngày 19/6/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh về việc tranh chấp quyền sử dụng đất

Nội dung sửa án 

(i) Về quan hệ tranh chấp: các đương sự đều tranh chấp “ai là người có quyền sử dụng đất” nên vụ án này quan hệ tranh chấp là “quyền sử dụng đất” theo quy định tại khoản 9 Điều 26 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Cấp sơ thẩm xác định tranh chấp “Quyền sở hữu tiền bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất” là không đúng. Cấp phúc thẩm điều chỉnh lại quan hệ tranh chấp cho phù hợp.

(ii) Tuy nhiên, tại Văn bản số 2422/UBND-TTPTQĐ ngày 29-7-2023 UBND huyện T trình bày: “…Sau khi Tòa án xét xử vụ án, căn cứ bản án, UBND huyện T sẽ điều chỉnh phương án và chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ về đất và các chính sách hỗ trợ khác cho người được hưởng theo quy định”. Lẽ ra, cấp sơ thẩm chỉ xác định ai là người có quyền sử dụng đất tranh chấp để UBND huyện T điều chỉnh phương án và chi trả tiền bồi thường …nhưng cấp sơ thẩm lại tuyên bà T được hưởng số tiền 751.591.500 đồng từ UBND huyện T là không đúng, vì sau khi điều chỉnh quyết định thu hồi đất, phương án bồi thường đúng đối tượng thì người có đất bị thu hồi được quyền khiếu nại, khởi kiện về hành chính theo quy định của pháp luật. Do đó, cấp phúc thẩm sửa lại cách tuyên cho phù hợp, cụ thể như sau: bà Lê Thị T, chị Lương Thị Diễm H và anh Lương Minh T1 được quyền sử dụng phần đất diện tích 1.222,1 m2, thuộc một phần thửa đất số 84, 85, tờ bản đồ số 01 (một phần thửa đất số 2 cũ, tờ 5 bản đồ HN-72) tọa lạc tại khu phố B, thị trấn T, huyện T, tỉnh Tây Ninh, hiện đất này UBND huyện T thu hồi để thực hiện dự án Bờ kè chống sạt lở Suối Cần Đăng đoạn chảy qua trung tâm thị trấn T theo Quyết định số 4469/QĐ-UBND ngày 30-12-2020 và Quyết định số 2855/ QĐ-UBND ngày 25-7-2022 (trong tổng diện tích đất ông Lâm Văn Q bị thu hồi là 3.244,8 m2) nên bà T, chị H, anh T1 có quyền liên hệ với UBND huyện T để UBND huyện điều chỉnh lại đối tượng được hưởng tiền bồi thường về đất bị thu hồi và giải quyết các chế độ, chính sách hỗ trợ cho người có đất bị thu hồi theo quy định của pháp luật.

8. Bản án dân sự phúc thẩm số 129/2024/DS-PT ngày 25/3/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp về việc tranh chấp quyền sử dụng đất

Nội dung sửa án 

Từ những cơ sở phân tích trên, Hội đồng xét xử xét thấy về nguồn tiền chuyển nhượng đất, xây dựng quán cà phê Ấn T4, đứng ra thỏa thuận, chuyển nhượng đất, quản lý, sử dụng đất và tài sản trên đất, cũng như vay tiền ngân hàng, mua bán cà phê, sống chung với nhau. Từ đó, xác định do chị T và chị T2 cùng nhau đóng góp để hình thành khối tài sản chung đang bị tranh chấp. Do đó, xét yêu cầu kháng cáo của chị T là có một phần căn cứ nên chấp nhận. Sửa một phần bản án sơ thẩm, chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của chị T.

9. Bản án dân sự phúc thẩm số 83/2024/DS-PT ngày 06/6/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh về việc tranh chấp quyền sử dụng đất

Nội dung sửa án 

Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm không tuyên công nhận phần đất tranh chấp cho bị đơn khi bị đơn có yêu cầu; không tuyên phần đất còn lại của thửa 299 đảm bảo cho Ngân hàng theo hợp đồng thế chấp ký giữa Ngân hàng với phía nguyên đơn là thiếu sót.

10. Bản án dân sự phúc thẩm số 29/2024/DS-PT ngày 23/3/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên về việc tranh chấp quyền sử dụng đất

Nội dung sửa án:

...

Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn cung cấp các biên lai thu thuế từ năm 1995 đến năm 2004 (BL 36-52) với người đóng thuế là Nguyễn L. Tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn thừa nhận việc từ trước đến nay không biết về việc có đóng thuế sử dụng đất hay không và cũng chính trong hồ sơ kỹ thuật thửa đất năm 1998, do UBND phường T lưu giữ, cung cấp thể hiện bảng kê danh sách những người cất nhà trên đất ông Nguyễn L, có thể hiện mục số 3 Nguyễn Ngọc Ký ký tên. Tại phiên tòa, nguyên đơn bà H cho rằng không phải chữ ký tên của chồng bà H, nhưng bà không chứng minh được, tiến hành giám định thì không đủ cơ sở kết luận.

Nguyên đơn không cung cấp được nguồn gốc đất là của ông K1, bà K2 chỉ biết vợ chồng bà Kiết đổi đất cho vợ chồng nguyên đơn từ 1977. Giấy đổi nhà và đất do nguyên đơn cung cấp thì ghi thêm “và đất” kể cả nội dung cũng ghi thêm “và đất”. Kết luận giám định ngày 08/3/2023 của Phân viện khoa học hình sự tại TP Đà Nẵng đã kết luận chữ viết “và đất” trong giấy đổi đứt ngôi nhà và đất lập năm 1977 là không cùng một loại mực và không phải do một người viết ra, đây là các chữ viết thêm; chữ đất bị tô đồ và ghi thêm trên các tài liệu, nên khi nguyên đơn yêu cầu cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với tài liệu này thì địa phương không chấp nhận. Bị đơn cung cấp các giấy tờ chứng minh nguồn gốc đất và được nhận lãnh thờ cúng qua các thời kỳ, kê khai địa chính qua các thời kỳ 1995, 1998 nộp thuế đất từ 1995 đến năm 2004. Thực tế nguyên đơn không ở trên đất từ năm 2006 mà ở nơi khác tại thôn P, xã L, thị xã S cũng không có hộ khẩu thường trú tại địa phương, nhà xuống cấp trầm trọng.

Từ những căn cứ như trên cần chấp nhận kháng cáo của bị đơn, sửa án sơ thẩm công nhận diện tích 161,5m2 thuộc quyền sử dụng đất của bị đơn là có cơ sở.

Góp ý